NỘI DUNG VỤ ÁN.
Ngày 19/10/2006, bà Trần Thị Ngọc Hoa, ông Trần Ngọc Trai nhận chuyển nhượng thửa đất số 19-B2-3, diện tích 139,14m đất ở, thuộc khu tái định cư Thanh Lộc Đán (nay là thửa 51, tờ bản đồ số 8, tại số 334 đường Dũng Sĩ Thanh Khê, phường Thanh Khê Tây, quận Thanh Khê, thành phố N) của ông Trần Thanh Vũ. Ngày 31/10/2006, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất quận Thanh Khê đã chỉnh lý sang tên cho ông Trai, bà Hoa.
Ngày 27/4/2009, ông Trai, bà Hoa tặng cho quyền sử dụng đất cho ông Trần Ngọc Toàn. Ông Trần Ngọc Toàn đã được chỉnh lý sang tên ngày 21/5/2009. Năm 2019, ông Trần Ngọc Ánh đã xây dựng ngôi nhà 2 tầng trên diện tích đất này.
Ông Trần Ngọc Ánh cho rằng thửa đất nêu trên do Ông gửi tiền cho bà Trần Thị Ngọc Yến (chị ruột), nhờ bà Yến giao tiền cho vợ chồng em trai là Trần Ngọc Trai và Trần Thị Kim Phụng mua, sau đó nhờ bà Trần Thị Ngọc Hoa và ông Trần Ngọc Trai đứng tên hộ vì ông Anh ở nước ngoài. Khi ông Trai, bà Hoa có mâu thuẫn nên ông Ánh nhờ ông Trần Ngọc Toàn (em ruột) đứng tên nên ông Trai, bà Hoa đã làm thủ tục tặng cho ông Toàn. Ông Ánh khởi kiện yêu cầu:
Xác định Ông là chủ sử dụng đất, diện tích đất 139,14m và ngôi nhà 2 tầng tổng diện tích sử dụng là 266,8m” nêu trên; tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Trần Ngọc Trai, bà Trần Thị Ngọc Hoa với ông Trần Ngọc Toàn vô hiệu và hủy chỉnh lý biến động đứng tên ông Trần Ngọc Toàn.
Bị đơn ông Trần Ngọc Toàn cho rằng năm 2006, ông Toàn có giúp vợ chồng bà Trần Thị Ngọc Hoa san lấp hố để lấy mặt bằng và phụ xây nhà cho bà Hoa trên thửa đất tranh chấp. Năm 2009, ông Trần Ngọc Trai và bà Trần Thị Ngọc Hoa có mâu thuẫn, ông Trần Ngọc Ánh gọi điện cho Ông về nhận đất tặng cho của ông Ánh để làm nhà ở và hương khói cho ông, bà. Năm 2010, Ông bỏ số tiền 68.000.000 đồng để xây dựng nhà. Năm 2019, ông Anh về Việt Nam xây dựng ngôi nhà 02 tầng như hiện nay. Ông Toàn được biết ngôi nhà này do ông Ánh và bà Hoa bỏ tiền ra xây.
Ông Toàn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Ánh. Trường hợp nếu tòa án giải quyết công nhận nhà đất cho ông Ánh thì đề nghị ông Ánh phải trả lại cho Ông số tiền 68.000.000 đồng xây nhà cấp 4 và tiền thuế Ông nộp từ năm 2009 cho đến nay.
QUÁ TRÌNH GIẢI QUYÉT CỦA TÒA ÁN
Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2021/DS-ST ngày 20/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố N, quyết định:
“Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Ngọc Anh (TONY ANH NGỌC, TRAN TONY ANH NGỌC) đối với ông Trần Ngọc Toàn về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vô hiệu và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuyên xử:
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 10189/HVID, ngày 19/10/2006 giữa ông Trần Thanh Vũ với ông Trần Ngọc Trai, bà Trần Thị Ngọc Hoa vô hiệu.
Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 4686/HVID, ngày 27/4/2009 giữa ông Trần Ngọc Trai, bà Trần Thị Ngọc Hoa với ông Trần Ngọc Toàn vô hiệu.
Hủy chỉnh lý biến động đúng tên ông Trần Ngọc Trai, bà Trần Thị Ngọc Hoa nhận chuyển nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất quận Thanh Khê xác nhận ngày 31/10/2006 đối với thửa đất số 19-B2- 3, tờ bản đồ số KT01/1, diện tích 139,14m tại khu tái định cư Thanh Lộc Đán, phưởng Thanh Khê Tây, quận Thanh Khê, thành phố N theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 553272 do UBND quận Thanh Khê, thành phố N cấp ngày 16/02/2006.
Huy chỉnh lý biến động đứng tên ông Trần Ngọc Toàn nhận tặng cho toàn bộ quyền sử dụng đất do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất quận Thanh Khê xác nhận ngày 21/5/2009 đối với thửa đất số 19-B2-3, tờ bản đồ số KT01/1, diện tích 139,14m tại khu tái định cư Thanh Lộc Đán, phường Thanh Khê Tây, quận Thanh Khê, thành phố N theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 4Đ 553272 do UBND quận Thanh Khê, thành phố N cấp ngày 16/02/2006;
Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CR 915543, thừa 51, tờ bản đồ số 8, tại 334 đường Dũng Sĩ Thanh Khê, phường Thanh Khê Tây, quận Thanh Khê, thành phố N do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố N cấp ngày 16/8/2019 đứng tên ông Trần Ngọc Toàn.
Công nhận cho ông Trần Ngọc Anh (TONY ANH NGỌC, TRAN TONY ANH NGỌC) được quyền sử dụng diện tích 139,lm đất ở tại đô thị. Trị giá quyền sử dụng đất là 6.673.293.540 đồng. Quyền sở hữu ngôi nhà 2 tầng có tổng diện tích sử dụng theo đo đạc thực tế là 250,7m2 kết cấu móng trụ, dầm sàn, bê tông cốt thép, mái bê tông cốt thép, lợp tôn chống nóng, cầu thang bê tông ốp đá ceramic, lan can kinh, tay vịn gỗ, cửa nhôm xingfa, trị giá là 902.520.000 đồng. Tổng cộng trị giá nhà và đất là 7.575.813.540 đồng. Có tứ cận….
Buộc ông Trần Ngọc Toàn phải có nghĩa vụ trả lại cho ông Trần Ngọc Anh (TONY ANH NGỌC, TRAN TONY ANH NGỌC) bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 4Đ 553272 do UBND quận Thanh Khê, thành phố N cấp ngày 16/02/2006 đứng tên ông Trần Thanh Vũ; có chỉnh lý biến động sang tên ông Trần Ngọc Trai, bà Trần Thị Ngọc Hoa; ông Trần Ngọc Toàn. Bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CR 915543 do Sở Tài nguyên và Môi trưởng thành phố N cấp ngày 16/8/2019 đúng tên ông Trần Ngọc Toàn.
Trường hợp ông Trần Ngọc Toàn không giao thì ông Trần Ngọc Ánh (TONY ANH NGỌC, TRAN TONY ANH NGỌC) vẫn được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền tiến hành thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định pháp luật.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Trần Ngọc Anh (TONY ANH NGỌC, TRAN TONY ANH NGỌC) hỗ trợ cho ông Trần Ngọc Toàn, bà Trần Thị Ngọc Hoa mỗi người 100.000.000 đồng. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Trần Ngọc Anh (TONY ANH NGỌC, TRAN TONY ANH NGỌC) trả lại giá trị vật liệu cũ cho bà Trần Thị Ngọc Hoa, ông Trần Văn Độ số tiền 3.487.000 đồng”.
Ngày 03/5/2021, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Ngọc Hoa kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ Luật TTDS 2015; chấp nhận một phần kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Ngọc Hoa; sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2021/DS-ST ngày 20/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố N theo hướng, tính công sức của bà Hoa theo Án lệ số 02/2016 của HĐTP – TAND tối cao ngày 06/4/2016 được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 6/4/2016 của Tòa án tối cao để đảm bảo quyền lợi cho bà Hoa.
Bản án dân sự phúc thẩm số 104/2022/DS-PT ngày 04/5/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, quyết định:
“Căn cứ vào khoản 2 Điều 308; Điều 309; Điều 293 Bộ luật tố tụng dân sự: Chấp nhận một phần kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Ngọc Hoa, sửa bản án sơ thẩm…
Áp dụng Ấn lệ số 02/2016/AL ngày 6/4/2016; Công văn số 64/TANDTC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân Tối cao; Xi….
Buộc ông Trần Ngọc Anh (TONY ANH NGỌC, TRAN TONY ANH NGỌC) giao trả cho ông Trần Ngọc Toàn, bà Trần Thị Ngọc Hoa mỗi người 200.000.000 đồng, về khoản đứng tên giùm và công sức giữ gìn bảo quản tài sån”.
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM
Vào năm 2006, ông Trần Ngọc Ánh là người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Ông Ánh đã gửi tiền về cho Việt Nam cho bà Trần Thị Ngọc Yến nhờ bà Yến và bà Trương Thị Kim Phụng mua thửa đất số 19-B2-3, tờ bản đồ số KT01/1, diện tích 139,1m tại khu tái định cư Thanh Lộc Đán, phường Thanh Khê Tây, quận Thanh Khê, thành phố N và để cho ông Trần Ngọc Trai và bà Trần Thị Ngọc Hoa đứng tên hộ.
Sau đó, do ông Trai và bà Hoa mâu thuẫn nên ông Ánh đã nhờ ông Trần Ngọc Toàn đứng tên nên ông Trai và bà Hoa đã làm thủ tặng cho quyền sử dụng đất cho ông Trần Ngọc Toàn. Ông Trần Ngọc Toàn đã được chỉnh lý sang tên ngày 21/5/2009.
Năm 2019, ông Trần Ngọc Ánh đã xây dựng ngôi nhà 2 tầng trên diện tích đất này. Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Trần Ngọc Toàn, bà Trần Thị Ngọc Hoa, bà Trần Thị Ngọc Yến, ông Trần Ngọc Trai, bà Trương Thị Kim Phụng đều thừa nhận như trình bày của ông Ánh. Từ năm 2019 đến nay, ông Ánh là người quản lý, sử dụng ngôi nhà này.
Bản án sơ thẩm đã tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Ngọc Ảnh; công nhận thửa đất số 19-b2-3, tờ bản đồ số KT 01/1 khu tái định cư Thanh Lộc Đán, quận Thanh Khê, thành phố N (nay là thửa 51, tờ bản đồ số 8, tại số 334 đường Dũng Sĩ Thanh Khê, phường Thanh Khê Tây, quận Thanh Khê, thành phố N) thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ông Ánh là đúng quy định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bà Trần Thị Ngọc Hoa (người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan) kháng cáo đề nghị xem xét khoản tiền 340.000.000 đồng mà Bà góp chung khi ông Ánh xây dựng nhà và tính công sức bảo quản, tôn tạo làm tăng giá trị nhà đất cho Bà. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, bà Trần Thị Ngọc Hoa không nộp tạm ứng án phí đối với yêu cầu này và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh nên toà án cấp sơ thẩm không thụ lý, giải quyết yêu cầu của bà Hoa là đúng quy định.
Nhưng trong vụ án này, ông Trần Ngọc Ánh định cư ở nước ngoài gửi tiền về Việt Nam mua đất và nhờ ông Trần Ngọc Trai và bà Trần Thị Ngọc Hoa đứng tên hộ trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 2006 – 2009 và bà Hoa còn trực tiếp quản lý, trông coi nhà đất giúp cho ông Ánh. Sau đó, ông Trần Ngọc Toàn là người đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Ánh nên bà Hoa và ông Toàn có công sức trong việc đứng tên hộ và bảo quản, gìn giữ khối tài sản này (riêng ông Trần Ngọc Trai không có yêu cầu), nhưng Bản án sơ thẩm không tính công sức cho bà Hoa, ông Toàn là không đúng theo Án lệ 02/2016/AL của HĐTP – TAND tối cao ngày 06/4/2016 được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 6/4/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã chấp nhận một phần kháng cáo của bà Trần Thị Ngọc Hoa; sửa một phần bản án sơ thẩm, tính công sức cho bà Hoa và ông Toàn là đúng theo tinh thần Án lệ số 02/2016/AL.