Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

NỘI DUNG VỤ ÁN DÂN SỰ

Ông Nguyễn Văn O đang sử dụng thửa đất số 767 (trích đo từ thửa 2,3), tờ bản đồ số 27, diện tích 86m, mục đích sử dụng đất: PNK, tọa lạc tại địa chỉ: Khu phố 2, phường ĐL, thành phố Đ, tỉnh Q (trong đó: Phần diện tích 54m3 là nhận chuyển nhượng của bà Trần Thị Minh Ng, phần diện tích 32m theo kết quả đo đạc có xác nhận của ông O là đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Đoàn D).

Nguồn gốc thửa đất do Hợp tác xã Trung Chỉ quản lý. Năm 1992, ông Lê Văn S được Hợp tác xã cấp thửa đất này. Sau đó, ông S chuyển nhượng cho bà Ng. Năm 2000, bà Ng xây dựng nhà ở trên một phần đất và chuyển nhượng phần đất còn lại (thửa đất tranh chấp) cho ông O. Năm 2008, ông ( xây dựng nhà ở và sử dụng ổn định cho đến nay.

Tại Giấy chuyển nhượng viết tay ngày 14/9/2002, thể hiện: Bà Ng chuyển nhượng cho ông ( thửa đất diện tích 05m x 18m, với giá 63.000.000 đồng. Nguồn gốc đất chuyển nhượng là một phần đất bà Ng nhận chuyển nhượng của ông S.

Nguyên đơn ông Nguyễn Văn O, bà Nguyễn Thị N khởi kiện yêu cầu tòa án buộc bà Ng giao cho ông O, bà Niềm diện tích 90m đất theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/9/2002. Bị đơn bà Trần Thị Minh Ng không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông O, bà N và yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/9/2002 vô hiệu và buộc ông ( phải tháo dỡ nhà tạm để xe ô tô trên thửa đất tranh chấp.

QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN

Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2022/DS-ST ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Q, quyết định:

“Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn O và bà Nguyễn Thị N về việc buộc bà Trần Thị Minh Ng có nghĩa vụ phải giao cho ông O và bà N diện tích 90m2 đất theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/9/2002. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/9/2002 vô hiệu và đình chỉ xét xử đối với yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu của bị đơn.”

Ngoài ra, bản án còn quyết định án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 07/10/2022, nguyên đơn ông Nguyễn Văn O kháng cáo và đề nghị Tòa cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm nêu trên.

Bản án dân sự phúc thẩm số 10/2023/DS-PT ngày 02/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Q, quyết định: “Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Văn O và giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.”

Ngoài ra, bản án còn quyết định án phí.

Ngày 18/5/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 43/QĐ-VKS-DS đối với bản án dân sự phúc thẩm và đề nghị hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm nêu trên để xét xử sơ thẩm lại.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 23/2023/DS-PT ngày 12/7/2023 của Tỏa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án.

NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM

Tại thời điểm bà Trần Thị Minh Ng chuyển nhượng thửa đất tranh chấp cho ông Nguyễn Văn O thì thửa đất của bà Ng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không được công chứng, chứng thực là vi phạm quy định tại khoản 1, 2 Điều 3 Nghị Định số 79/2001/NĐ-CP ngày 01/11/2001 của Chính phủ, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999 của Chính phủ.

Tuy nhiên, ông O đã thanh toán đủ số tiền chuyển nhượng cho bà Ng, nhận bàn giao đất, xây dựng hàng rào, làm nhà trên toàn bộ thửa đất và sử dụng đất từ năm 2008 cho đến nay. Việc sử dụng đất của ông O phù hợp với quy hoạch khu dân cư đã được phê duyệt, điều chỉnh phân khu tỷ lệ 1/2000 phường ĐL tại Quyết định số 2787/QĐ-UBND ngày 31/12/2014 của Ủy ban nhân dân thành phố Đ và được Ủy ban nhân dân phường ĐL xác lập hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Sổ mục kê năm 2019 thể hiện: Ông O sử dụng 90,1m đất. Đồng thời, ông O không bị xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/9/2002 giữa bà Ng và ông O được công nhận theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm lại tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/9/2022 vô hiệu là không đúng pháp luật.

Bà Trần Thị Minh Ng có đơn phản tố yêu cầu ông O phải tháo dỡ toàn bộ nhà tạm để xe ô tô trên thửa đất tranh chấp nhưng bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm không xem xét là không giải quyết hết yêu cầu của đương sự và ảnh hưởng đến quyền tự định đoạt của đương sự vi phạm quy định tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Ngoài ra, phần diện tích đất tranh chấp có 32m3 đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đoàn D nhưng tòa án không đưa ông D tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Bản án dân sự sơ thẩm và bản án dân sự phúc thẩm tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/9/2002 vô hiệu là không có căn cứ và có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận toàn bộ Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm.

You cannot copy content of this page