NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo trình bày của người khởi kiện, ông Nguyễn Tất V:
Ngày 26/7/2018, ông Nguyễn Tất V nộp hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) đối với lô đất có diện tích hơn 7.000m, thuộc các thửa đất số 829, 878, 883, tờ bản đồ số 01, thị trấn T, huyện H, tỉnh B. Nguồn gốc diện tích đất nêu trên là do gia đình khai hoang và quản lý, sử dụng liên tục, ổn định từ năm 1991 đến nay và không có tranh chấp.
Ngày 02/5/2019, Ủy ban nhân dân (UBND) thị trấn T ban hành Công văn số 11/CV-UBND không chấp nhận yêu cầu cấp GCNQSDĐ của ông V. Không đồng ý nên ông V tiếp tục làm đơn kiến nghị UBND huyện H xem xét cấp GCNQSDĐ cho gia đình ông.
Ngày 17/5/2019, UBND huyện H ban hành Văn bản số 185/UBND-TN trả lời ông V với nội dung không có cơ sở xem xét giải quyết đối với yêu cầu cấp GCNQSDĐ của ông V. Ông V tiếp tục có đơn khiếu nại và được Chủ tịch UBND huyện H ban hành Quyết định số 2597/QĐ-UBND ngày 15/7/2019 về việc giải quyết khiếu nại với nội dung không công nhận khiếu nại của ông V.
Ngày 12/8/2019, ông V khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 2597/QĐ-UBND ngày 15/7/2019 của Chủ tịch UBND huyện H, tỉnh B và buộc UBND huyện H cấp GCNQSDĐ cho gia đình ông V.
Theo trình bày của người bị kiện, Chủ tịch UBND huyện H và UBND huyện H Ngày 10/9/1995, ông Nguyễn Tất V làm đơn xin đất xây dựng nhà ở, được UBND thị trấn T xác nhận “Ông V chưa có nhà ở, đề nghị UBND huyện xem xét cho ông V xây dựng nhà ở tại thửa đất số 829, tờ bản đồ số 01, diện tích 300m, thị trấn T”. Qua kiểm tra, xác minh thực tế tại các thửa đất số 829, 878, 883, tờ bản đồ số 01, ông V đã xây dựng nhà ở, các công trình phục vụ đời sống và trồng các loại cây lâu năm trên các thửa đất. Tổng diện tích ông V sử dụng là 7.055m, bao gồm: Thửa đất số 829, diện tích 300m2 (đất trồng cây lâu năm), trong đó diện tích đất nằm trong hành lang giao thông tuyến đường từ Trạm điện huyện đi thôn A, xã Â là 264m; thửa đất số 878, diện tích 6.485m2 (trong đó nhà ở và các công trình khác 288m, trồng cây lâu năm 6.197m); thửa đất số 883, diện tích 270m3 (đất trồng cây lâu năm), trong đó diện tích đất hành lang giao thông tuyến đường từ Trạm điện huyện đi thôn A, xã Â 252m.
Theo Hồ sơ địa chính năm 1998 thì thửa đất số 878, tờ bản đồ số 01, thị trấn T là loại đất trồng cây lâu năm giao cho Trường Dân tộc nội trú trước đây quản lý, sử dụng, nay đã giải thể, hiện nay là nguồn để hình thành hoặc bổ sung quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của thị trấn T theo quy định tại khoản 1 Điều 132 Luật Đất đai năm 2013. Do đó, ông V không đủ điều kiện để được cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 878 nêu trên.
Đối với các thửa 829, 883 là loại đất chưa sử dụng do UBND thị trấn T quản lý. Các thửa đất trên ông V đã khai hoang, sử dụng trồng cây lâu năm đến nay không có tranh chấp với ai. Tuy nhiên, sau khi quy hoạch tuyến đường từ Trạm điện huyện H đi thôn A, xã Â, các thửa đất trên còn lai diện tích rất ít (54m’) nên không đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ cho ông V.
Chủ tịch UBND huyện H ban hành Quyết định số 2597/QĐ-UBND ngày 15/7/2019 giải quyết đơn khiếu nại của ông V là đúng quy định của pháp luật.
QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN
– Bản án hành chính sơ thẩm số 27/2020/HC-ST ngày 31/7/2020 của TAND tỉnh B tuyên xử: “Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Tất V yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 2597/QĐ-UBND ngày 15/7/2019 về việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Tất V và buộc UBND huyện H, tỉnh B cấp GCNQSDĐ cho ông Nguyễn Tất V
Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Nguyễn Tất V kháng cáo toàn bộ Bản án hành chính sơ thẩm nêu trên.
Bản án hành chính phúc thẩm số 25/2020/HC-PT ngày 23/11/2020 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng, quyết định:
“Chấp nhận một phần đơn khởi kiện của ông Nguyễn Tất V:
– Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 2597/QĐ-UBND ngày 15/7/2019 của Chủ tịch UBND huyện H, tỉnh B và Công văn số 11/CV-UBND ngày 02/5/2019 của UBND thị trấn T.
– Buộc UBND huyện H, tỉnh B thực hiện hành vi cấp GCNQSDĐ cho gia đình ông Nguyễn Tất V đối với diện tích đất gia đình ông Nguyễn Tất V đang thực tế sử dụng tại thửa đất số 878, tờ bản đồ số 01, thị trấn T, huyện H, tỉnh B theo quy định của pháp luật.”
Ngày 22/01/2021, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Thông báo số 310/TB-VC2-HC về việc Bản án hành chính phúc thẩm số 25/2020/HC-PT ngày 23/11/2020 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng cần xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm gửi Vụ 10 – VKSND tối cao.
Trong khi VKSND tối cao đang trong quá trình giải quyết Thông báo số 310 nói trên của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng, Chánh án TAND tối cao ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 13/2022/KN-HC ngày 13/7/2022 đối với Bản án chính phúc thẩm số 25/2020/HC-PT ngày 23/11/2020 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng.
– Quyết định giám đốc thẩm số 20/2022/HC-GĐT ngày 29/8/2022 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, quyết định:
“1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 13/2022/KN-HC ngày 13/7/2022 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với Bản án chính phủc thẩm số 25/2020/HC-PT ngày 23/11/2020 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng.
2. Hủy Bản án chính phúc thẩm số 25/2020/HC-PT ngày 23/11/2020 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng; giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 27/2020/HC-ST ngày 31/7/2020 của TAND tỉnh B.”
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM
1. Về nội dung:
Theo Hồ sơ địa chính thị trấn T năm 1998 và Báo cáo kết quả kiểm tra, xác minh số 09/BC-TNMT ngày 04/7/2019 của Phòng Tài nguyên – Môi trưởng huyện H thì thửa đất số 829 (diện tích 300m) và thửa đất số 883 (diện tích 270m) đều là đất hoang, do UBND thị trấn T đứng tên sử dụng. Thửa đất số 878, tờ bản đồ số 01 là một phần trong diện tích 124.500m đất được UBND huyện H giao cho Trưởng Dân tộc nội trú để trồng rừng theo Quyết định số 15/QĐ-UB ngày 26/02/1992. Do Trường Dân tộc nội trú giải thể, không còn nhu cầu sử dụng nên ngày 23/01/2007, UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 63/QĐ-UBND thu hồi phần đất nêu trên và bàn giao cho UBND huyện H quản lý, sử dụng.
Ngày 02/4/2019, UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 70/QĐ-UBND phê duyệt kế hoạch sử dụng đất tại huyện H. Theo đó, thửa đất số 878 thuộc quy hoạch là đất khu dân cư, nhưng do dự án phát triển khu dân cư hết hạn mà không thực hiện nên bị hủy bỏ. Hiện nay, thửa đất số 878 nằm trong các công trình dự án thực hiện năm 2021 để sử dụng vào mục đích công ích của thị trấn T chờ Hội đồng nhân dân và UBND tỉnh B phê duyệt.
Đối với các thửa đất số 829, 883, tờ bản đồ số 01, thị trấn T, sau khi quy hoạch, xây dựng tuyến đường từ Trạm điện H đi thôn A, xã Â, diện tích còn lại là 54m nên không đủ điều kiện về định mức để được cấp GCNQSDĐ.
Mặc khác, ông V cho rằng gia đình ông khai hoang, sử dụng các thửa đất trên từ năm 1991, tuy nhiên không có chứng cứ chứng minh. Theo Công văn số 41/CAH-QLHC ngày 14/01/2021 của Công an huyện H và các tài liệu kèm theo thì ông V có hộ khẩu thường trú tại khu phố G, thị trấn T, huyện H, tỉnh B vào ngày 08/9/1995. Trước thời điểm ngày 08/9/1995, vợ chồng ông V có hộ khẩu thường trú tại thôn P, xã Â, huyện H, tỉnh B. Ngày 10/9/1995, ông V có đơn xin đất làm nhà. Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của ông V và các nhân chứng để xác định thời điểm ông V khai hoang, tạo lập, xây dựng nhà ở, quản lý, sử dụng đất từ năm 1991 là không đúng.
Ngoài ra, theo Hồ sơ địa chính do UBND huyện H cung cấp thì hộ ông Nguyễn Văn  (là cha của ông V) thường trú tại thôn P, xã  được giao 05 thửa đất với tổng diện tích là 6.504m theo Quyết định số 274/QĐ-UB ngày 24/6/1993 của UBND huyện H. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông V thừa nhận hộ gia đình ông  (trong đó có vợ chồng ông V và các con ông V) được Nhà nước cân đối giao quyền sử dụng đất 10 nhân khẩu tại đội 7, thôn P, xã Â, huyện H, tỉnh B. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng không có căn cứ xác định gia đình ông V đã được cân đối giao đất trong hộ ông  tại xã Â, huyện H là không đúng.
Như vậy, các thửa đất số 829, 883 không đủ hạn mức theo quy định để cấp GCNQSDĐ; thửa đất số 878 do Trường Dân tộc nội trú đứng tên, UBND tỉnh B đã có quyết định thu hồi, giao cho UBND huyện H quản lý nên căn cứ Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều, khoản của Luật Đất đai năm 2013 thì thửa đất số 878 là đất đã có quyết định thu hồi của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nên gia đình ông V không được cấp GCNQSDĐ.
Từ những phân tích trên, nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông V là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của ông V và một số nhân chứng từ đó chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông V, hủy Quyết định số 2597/QĐ-UBND ngày 15/7/2019 của Chủ tịch UBND huyện H, tỉnh B về việc giải quyết khiếu nại của ông V và Công văn số 11/CV-UBND ngày 02/5/2019 của UBND thị trấn T là không có căn cứ. Vậy nên, Quyết định giám đốc thẩm số 20/2022/HC-GĐT ngày 29/8/2022 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã tuyên Hủy Bản án chính phúc thẩm số 25/2020/HC-PT ngày 23/11/2020 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng; giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 27/2020/HC-ST ngày 31/7/2020 của TAND tỉnh B.
2. Về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính
Sau khi nghiên cứu kháng cáo của ông Nguyễn Tất V đối với Bản án hành chính sơ thẩm số 27/2020/HC-ST ngày 31/7/2020 của TAND tỉnh B và toàn bộ nội dung, hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên VKSND cấp cao tại Đà Nẵng đã phát biểu quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm bác kháng cáo của ông V, giữ nguyên quyết định Bản án hành chính sơ thẩm số 27/2020/HC-ST ngày 31/7/2020 của TAND tỉnh B. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm quyết định chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Tất V, sửa một phần Bản án hành chính sơ thẩm nói trên.
Sau khi quan điểm của Viện kiểm sát không được Tòa án chấp nhận, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đã kịp thời báo cáo Lãnh đạo VKSND cấp cao tại Đà Nẵng để ban hành Thông báo số 310/TB-VC2-HC ngày 22/01/2021 về việc Bản án hành chính phúc thẩm số 25/2020/HC-PT ngày 23/11/2020 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng cần xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm gửi Vụ 10 – VKSND tối cao, đề nghị VKSND tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 25/2020/HC-PT ngày 23/11/2020 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng, giữ nguyên quyết định Bản án hành chính sơ thẩm số 27/2020/HC-ST ngày 31/7/2020 của TAND tỉnh B.
Do hồ sơ vụ án đã được TAND thụ lý và giải quyết theo đơn đề nghị của UBND huyện H nên Thông báo số 310/TB-VC2-HC ngày 22/01/2021 của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng chưa được VKSND tối cao giải quyết. Mặc dù vậy, quan điểm đề nghị của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng tại Thông báo số 310 nói trên hoàn toàn phù hợp với quyết định của Quyết định giám đốc thẩm số 20/2022/HC- GĐT ngày 29/8/2022 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao.
- Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản. Mượn dể, khó đòi.
- Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
- Phạm nhân la hét, gây rối trong buồng giam, bị cán bộ quản giáo đánh. Cán bộ quản giáo bị xử lý về tội gì
- Tranh chấp về chia di sản thừa kế
- Vi phạm của Toà án trong việc giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước