Nội dung vụ án
Thực hiện Dự án đầu tư nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1D tử ngã ba Long Vân đến Bến xe liên tỉnh, UBND thành phố Q, tỉnh B ban hành Quyết định số 5956/QĐ-UBND và Quyết định số 5958/QĐ-UBND cùng ngày 27/8/2015 về thu hồi, phê duyệt phương án bồi thưởng, hỗ trợ giải phóng mặt bằng đối với thửa đất số 149, tờ bản đồ số 48, thuộc phường Nhơn Phú, thành phố Q, tỉnh B của ông Trần V, bà Nguyễn Thị Th. Do gia đình bà Th không tự nguyện giao mặt bằng cho Nhà nước nên ngày 16/9/2016 Chủ tịch UBND thành phố Q đã ban hành Quyết định số 6658/QĐ-UBND cưỡng chế thu hồi đất đối với ông V, bà Th.
Ngày 04/10/2016, bà Th gửi đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân tỉnh B để nghị tuyên hủy Thông báo việc cưỡng chế và Quyết định số 6658/QĐ-UBND về cưỡng chế thu hồi đất đối với ông V, bà Th và được cán bộ Văn phòng Tòa án ND tỉnh B vào số tiếp nhận đơn khởi kiện. Đến ngày 04/10/2017 và ngày 01/11/2017 ông Trần V, bà Nguyễn Thị Th tiếp tục nộp đơn khởi kiện và đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh B thụ lý đơn khởi kiện; Ngày 29/6/2018, Tòa án nhân dân tỉnh B có thông bảo thụ lý vụ án hành chính giữa người khởi kiện là ông Trần V, bà Nguyễn Thị Th với người bị kiện là Chủ tịch UBND thành phố Q, tỉnh B.
Quá trình giải quyết của Tòa án
Ngày 28/7/2021, Tòa án ND tỉnh B ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm số 27/2021/QĐST-HC, với lý do: Ngày 04/10/2017, ông V, bà Th khởi kiện đối với Quyết định số 5956/QĐ-UBND về việc thu hồi 45,1m2 đất, Quyết định số 5958/QĐ-UBND ngày 27/8/2015 về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và Quyết định số 6658/QĐ-UBND ngày 16/9/2016 của Chủ tịch UBND thành phố Q về việc cưỡng chế thu hồi đất thuộc thửa đất số 149, tờ bản đồ số 48 của vợ chồng ông V, bà Th là đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 của Luật Tố tụng hành chính.
Ngày 30/7/2021, ông V, bà Th kháng cáo, tại Quyết định giải quyết việc kháng cáo số 270/2021/QĐ-PT ngày 07/12/2021, Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố ĐN, quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần V và bà Nguyễn Thị Th. Giữ nguyên Quyết định định chỉ giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm số 27/2021/QĐST-HC ngày 28/7/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh B
Ngày 09/3/2022, ông V có đơn đề nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với vụ án nêu trên, kèm theo đơn là văn bản trình bày của ông Trần P người đại diện theo ủy quyền của bà Th và giấy xác nhận của Tòa án nhân dân tỉnh B về việc ngày 04/10/2016 và ngày 06/10/2016 Văn phòng Tòa án nhân dân tỉnh B có nhận đơn khởi kiện của bà Th.
Sau khi nghiên cứu đơn và văn bản trình bày người đại diện theo ủy quyền của bà Th, Tòa án nhân dân tối cao đã tiến hành kiểm tra, xác minh, xác định nội dung của người khiếu nại là có căn cứ pháp luật nên ngày 03/3/2023, Chánh án Tòa án nhân tối cao đã có quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã xét xử giám đốc thẩm hủy Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 270/2021/QĐ-PT ngày 07/12/2021 của Tòa án ND cấp cao tại ĐN và Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm số 27/2021/QĐST-HC ngày 28/7/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh B; Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh B giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Thứ nhất, về thủ tục xem xét đơn khởi kiện, xác định thời hiệu khởi kiện ở giai đoạn sơ thẩm:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện tại đơn khởi kiện để ngày 04/10/2017 và Đơn đề nghị Tòa án thụ lý vụ án hành chính ngày 21/6/2018 có đính kèm nội dung về việc ngày 04/10/2016 ông Trần V, bà Nguyễn Thị Th đã gửi đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dẫn tỉnh B và được cán bộ Văn phòng Tòa án vào sổ nhận đơn. Như vậy ngày 16/9/2016, Chủ tịch UBND thành phố Q ban hành Quyết định số 6658/QĐ-UBND cưỡng chế thu hồi đất đối với ông V, bà Th thì ngày 04/10/2016 bà Th đã có đơn khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định số 6658/QĐ-UBND ngày 16/9/2016 của Chủ tịch UBND thành phố Q là còn trong thời hiệu. Nhưng Tòa án không kiểm tra đối chiếu các thông tin về việc thụ lý đơn khởi kiện của ông V, bà Th trước đó, chỉ căn cứ vào đơn khởi kiện để ngày 1 04/10/2017 và ngày 01/11/2017 để xác định đơn khởi kiện của ông V, bà Th đã hết thời hiệu khởi kiện để ban hành quyết định định chi việc giải quyết vụ án là không đúng, vi phạm nghiêm trọng tổ tụng, không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Về trách nhiệm của Kiểm sát viên cấp sơ thẩm, chưa kiểm sát chặt chẽ việc nhận và xem xét đơn khởi kiện: Tòa án cấp sơ thẩm nhận đơn ngày 04/10/2017 và ngày 01/11/2017, đến ngày 29/6/2018 mới ban hành Thông báo thụ lý vụ án là vi phạm quy định tại Điều 121 Luật Tố tụng hành chính về nhận và xem xét đơn khởi kiện nhưng Kiểm sát viên không phát hiện kịp thời để thực hiện quyền kiến nghị Tòa án trong việc vi phạm thời hạn xem xét đơn khởi kiện và thụ lý vụ án.
Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm xác định người khởi kiện vào ngày 04/10/2017 là vẫn còn trong thời hạn, về nội dung yêu cầu khởi kiện không có căn cứ nên đề nghị Tòa án bác đơn khởi kiện của người khởi kiện. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm lại ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án do hết thời hiệu khởi kiện, do không phát hiện được có tài liệu đính kèm đơn khởi kiện có nội dung “ ngày 04/10/2016 người khởi kiện đã gửi đơn khởi kiện đến Tòa án và được vào sổ nhận đơn” và chỉ chú trọng vào nội dung yêu cầu của người khởi kiện nên sau khi xét xử sơ thẩm Kiểm sát viên đã không đề xuất xem xét kháng nghị hoặc báo cáo đề nghị cấp trên kháng nghị phúc thẩm là có thiếu sót.
Thứ hai, về thủ tục xét kháng cáo ở giai đoạn phúc thẩm:
Khi ông V, bà Th kháng cáo và ông Trần P người đại diện theo ủy quyền của bà Th đã có văn bản trình bảy kèm theo đơn kháng cáo đều có nội dung thể hiện ông V, bà Th đã nộp đơn khởi kiện từ ngày 04/10/2016 nhưng Tòa án cấp phúc thẩm và Kiểm sát viên được phân công kiểm sát hồ sơ giải quyết việc kháng cáo không xem xét nội dung văn bản trình bày của người đại diện theo ủy quyền nên đã đề nghị Tòa án ban hành quyết định không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên quyết định sơ thẩm là không đúng pháp luật.
Như vậy, trong quá trình kiểm sát việc Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án hành chính, Kiểm sát viên cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm chưa chấp hành nghiêm túc Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính ban hành kèm theo Quyết định số 282/QĐ-VKSTC ngày 01/8/2017 nay là Quyết định số 255/QĐ-VKSTC ngày 16/8/2021 và Quyết định số 286/QĐ-VKSTC ngày 08/7/2019 của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành quy định về quy trình kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính.