Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Theo nội dung bản án, năm 2014, chị Phượng đã vay của chị Trang tổng số tiền 800.000.000 đồng. Cụ thể ngày 16/02/2014 là 200.000.000 triệu, lãi suất 6%/tháng; ngày 21/02/2014 là 300.000.000 đồng, lãi suất 7%/tháng; ngày 27/02/2014 là 200.000.000 đồng, lãi suất 7%/tháng; ngày 09/4/2014 là 100.000.000 đồng, lãi suất 3,5/ngày/1.000.000 đồng. Tất cả các lần vay đều không có thời hạn. Sau khi vay, chị Phượng đã trả tiền gốc 100.000.000 đồng cho khoản vay ngày 09/4/2014; trả lãi các khoản vay đến tháng 6/2014 (âm lịch), sau đó không trả nữa. Ngày 29/10/2014, chị Trang có đơn rút khoản vay 200.000.000 đồng ngày 27/02/2014; trừ số tiền 4.800.000 đồng tiền hàng còn nợ chị Phượng vào tiền lãi. Nay chỉ yêu cầu chị Phương trả tiền gốc 500.000.000 đồng, tiền lãi trả theo quy định từ tháng 6/2014 âm lịch, tất cả trả 01 lần dứt điểm. Chị Phượng thừa nhận có nợ chị Trang 700.000.000 đồng nay xin trả dần 7.000.000 đồng tháng, còn tiền lãi xin không trả.

HĐXX đã áp dụng các điều 471, khoản 5 Điều 474, Điều 476 và khoản 2 Điều 477/BLDS tuyên xử chị Phượng phải trả cho chị Trang số tiền 529.325.000 đồng; Bác lời khai của chị Phượng về việc xin trả dần tiền gốc 7.000.000 đồng/tháng và xin không trả lãi; Giữ nguyễn quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2015/QĐ-BPKCTT ngày 23/01/2015 của TAND TP.Quy Nhơn để đảm bảo cho công tác thi hành án; Buộc chị Phượng chịu án phí 26.466.000 đồng.

Qua kiểm sát hồ sơ vụ án và Bản án sơ thẩm số 20/2015/DSST ngày 03/02/2015 của TAND TP.Quy Nhơn, Viện KSND TP.Quy Nhơn nhận thấy có những vi phạm như sau:

Về tố tụng:

– Trong vụ án này, Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của nguyên đơn. Đây là hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 85 và khoản 1 Điều 86/BLTTDS. Theo quy định tại khoản 2 Điều 21/BLTTDS thì trường hợp này Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, đối với vụ án này, Tòa án nhân dân TP.Quy Nhơn không thông báo và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu tham gia phiên tòa là vi phạm khoản 2 Điều 195/BLTTDS, điểm a khoản 1 Điều 2 và khoản 1 Điều 7 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 01/8/2012 của VKSNDTC và TANDTC.

– HĐXX xác định trừ số tiền 4.800.000đ chị Nguyễn Thị Hoa mua hàng của chị Phượng vào tiền lãi mà chị Phượng phải trả cho chị Trang, nhưng không đưa chị Nguyễn Thị Hoa vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vi phạm khoản 4 Điều 56/BLTTDS.

Về nội dung:

– Bản án tuyên buộc chị Trương Thúy Phượng có nghĩa vụ trả cho chị Nguyễn Thị Thảo Trang số tiền 529.325.000đ, trong đó có 29.325.000đ tiền lãi là không có cơ sở, trái với quy định tại khoản 1 Điều 476/BLDS, bởi vì:

Căn cứ váo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cho thấy: Ngày 16/02/2014, chị Phượng vay của chị Trang 200.000.000đ, lãi suất 7%/tháng, không thời hạn, đến ngày 21/02/2014, chị Phượng tiếp tục vay của chị Trang 300.000.000đ, lãi suất 6/%/tháng, không thời hạn và chị Phượng đã trả lãi cho chị Trang đến tháng 6/2014 (AL), ngày 17/9/2014 chị Trang có đơn khởi kiện yêu cầu chị Phượng phải trả nợ gốc và lãi theo quy định của pháp luật.

Xét thấy: Giữa chị Trang và chị Phượng có xác lập hợp đồng vay tài sản, không kỳ hạn và có lãi suất, chị Phượng đã trả lãi cho chị Trang với lãi suất 6%, 7%/tháng đến hết tháng 6/2014(AL). Do lãi suất các bên thỏa thuận vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời điểm vay là 1,125%/tháng (theo QĐ số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) nên theo quy định tại khoản 1 Điều 476/BLDS, tiền lãi phải được điều chỉnh lại cụ thể như sau:

+ Đối với số tiền vay 200.000.000đ vay từ ngày 16/02/2014 đến ngày  17/9/2014 (ngày khởi kiện) là 7 tháng 01 ngày: 200.000.000đ x1,125%/tháng x 7 tháng 01 ngày/30 = 15.825.000đ.

+ Đối với số tiền vay 300.000.000đ vay từ ngày 21/02/2014 đến ngày  17/9/2014 (ngày khởi kiện) là 6 tháng 26 ngày: 300.000.000đ x1,125%/tháng x 6 tháng 26 ngày/30 = 23.175.000đ.

Như vậy, tiền lãi đối với 2 khoản vay trên, chị Phượng phải trả cho chị Trang là 39.000.000đ (15.825.000đ + 23.175.000đ) nhưng chị Phượng đã trả lãi cho chị Trang 160.000.000đ, cụ thể như sau:

+ Đối với số tiền vay 200.000.000, lãi đã trả là: 200.000.000đ x7%/tháng x 5 tháng/30 = 70.000.000đ.

+ Đối với số tiền vay 300.000.000, lãi đã trả là: 300.000.000đ x6%/tháng x 5 tháng/30 = 90.000.000đ.

Vì vậy, số dư tiền lãi: 160.000.000đ – 39.000.000đ = 121.000.000đ được trừ vào tiền gốc. Cụ thể: 500.000.000đ – 121.000.000đ = 379.000.000đ

+ Chị Phượng chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán nên theo quy định tại khoản 2 Điều 305/BLDS thì chị Phượng phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố là 0,75%/tháng (theo QĐ số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán cụ thể lãi chậm trả được tính với mức lãi 0,75%/tháng từ ngày 17/9/2014 (ngày khởi kiện) đến ngày xét xử (03/02/2015) là 136 ngày:  379.000.000đ x0,75%/tháng x 136 ngày/30 =  12.886.000đ.

Như vậy, tổng cộng số tiền gốc và lãi mà chị Phượng phải có nghĩa vụ trả cho chị Trang là 391.886.000đ (trong đó có 379.000.000đ tiền gốc và 12.866.000đ tiền lãi).

Việc HĐXX không xem xét đến số tiền lãi chị Phượng đã trả cho chị Trang và tính lãi từ ngày 01/8/2014 đến ngày 03/02/2015 (ngày xét xử) với mức lãi bằng 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, buộc chị Phượng phải trả cho chị Trang số tiền 500.000.000đ nợ gốc và tiền lãi 34.125.000đ, là trái với quy đ ịnh tại khoản 1 Điều 476/BLDS, khoản 2 Điều 305/BLDS làm thiệt hại lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.

– Trong quá trình thụ lý vụ án, giữa lời khai của nguyên đơn và bị đơn có mâu thuẫn nhưng Tòa án không tiến hành đối chất giữa các bên đương sự là thiếu sót.

– Về án phí: Bản án tuyên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 26.466.000đ là không có sơ sở, trái với quy định tại khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội số 10/2009/PL-UBTVQH 12 và khoản 2 mục I của danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án (ban hành kèm theo Pháp lệnh số 10/UBTVQH12 ngày 27/02/2009), làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn. Bởi vì theo quy định tại  khoản 2 mục I của danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án (ban hành kèm theo Pháp lệnh số 10/UBTVQH12 ngày 27/02/2009) với số tiền 529.325.000đ bản án tuyên buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn, thì bị đơn chỉ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là: 25.173.000đ chứ không phải chịu án phí 26.466.000đ như bản án đã tuyên.

– Bản án tuyên giữ nguyên Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2015/QĐ-BPKCTT ngày 23.01.2015 của TANDTP Quy Nhơn để đảm bảo cho công tác thi hành án là trái với quy định tại Điều 117/BLTTDS, bởi vì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là một Quyết định độc lập, khi xét thấy biện pháp khẩn cấp tạm thời đang áp dụng không còn phù hợp mà cần thiết phải thay đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ việc áp dụng biện pháp tạm thời đó thì Tòa án phải ra ngay Quyết định thay đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Việc bản án tuyên giữ nguyên Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong bản án sẽ dẫn đến việc khi bản án có hiệu lực thi hành thì Quyết định này sẽ mãi có hiệu lực thi hành theo, trong khi Quyết định này ( khẩn cấp tạm thời) có thể thay đổi, bổ sung, hoặc hủy bỏ theo quy định tại Điều 121, 122/BLTTDS, từ đó gây khó khăn cho công tác thi hành án. Mặt khác, việc bản án tuyên giữ nguyên Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nói trên, làm cho quyền lợi của người có quyền lợi, nghĩa vụ khác không tham gia tố tụng trong vụ án này.

Chính vì các vi phạm trên, Viện KSND TP.Quy Nhơn đã Kháng nghị bản án Dân sự sơ thẩm số 20/2015/DSST ngày 03/02/2015 của TAND TP.Quy Nhơn theo thủ tục phúc thẩm và đề nghị TAND tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng hủy bản án sơ thẩm nêu trên của TAND TP.Quy Nhơn.

Luật sư Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong các vụ tranh chấp

You cannot copy content of this page