Thành Phố Hồ Chí Minh: Tranh Chấp Di Sản Thừa Kế Giữa Con Nuôi Và Con Ruột Phải Trải Qua Nhiều Cấp Xét Xử

Vụ án tranh chấp chia tài sản chung liên quan đến việc mua hóa giá nhà giữa các đương sự là một trong những vụ việc phức tạp, kéo dài nhiều năm và trải qua nhiều cấp xét xử. Vụ án không chỉ liên quan đến quyền sở hữu tài sản mà còn đặt ra nhiều vấn đề pháp lý về việc xác định quyền thừa kế, tính hợp pháp của việc mua hóa giá nhà, và thủ tục tố tụng.

1. Tóm Tắt Vụ Án

Vụ án bắt nguồn từ tranh chấp giữa bà Nguyễn Thị H (nguyên đơn) và bà Nguyễn Thị Kim L (bị đơn) về việc chia tài sản chung là căn nhà số 63 T, Phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn nhà này được cấp cho cụ Nguyễn Thanh T (cha của bà H và ông Nguyễn Văn T) theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Sau khi cụ T qua đời, bà L đã đứng tên mua hóa giá căn nhà theo Nghị định số 61-CP ngày 05/7/1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở.

Bà H cho rằng căn nhà này là tài sản chung của các thừa kế hợp pháp của cụ T, bao gồm bà, ông T, và các con của ông T2 (đã mất). Bà yêu cầu Tòa án buộc bà L phải chia lại giá trị căn nhà sau khi trừ đi chi phí mua hóa giá. Tuy nhiên, bà L khẳng định rằng căn nhà là tài sản riêng của mình vì bà đã mua theo chế độ con liệt sỹ, không phải theo chế độ của cụ T.

2. Diễn Biến Pháp Lý Và Các Mốc Thời Gian Quan Trọng

Năm 1981 – Cấp nhà cho cụ Nguyễn Thanh T: Cụ Nguyễn Thanh T được Quân khu 7 cấp căn nhà số 63 T theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Cụ T là người có công với cách mạng, tham gia cách mạng từ trước năm 1945.

Năm 1995 – Cụ T qua đời: Cụ T qua đời mà không để lại di chúc. Bà L (con riêng của cụ Th, vợ sau của cụ T) đã đứng tên mua hóa giá căn nhà theo Nghị định số 61-CP.

Ngày 09/6/1993 – Cụ T lập “Giấy ủy quyền”: Nội dung đề cập “Tôi ủy quyền cho con tôi Nguyễn Thị Kim L những việc có liên quan đến quyền lợi và ủy quyền cho nó được trọn quyền giải quyết những việc có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với căn nhà Quân khu 7 và Sở nhà đất thành phố cấp cho (bao gồm tầng 1 lầu 1 và diện tích sàn phía dưới dất đã được phân chia giữa hai gia đình từ trước) khi không may tôi qua đời”.

Năm 1998: Bà L có đơn gửi Hội đồng nhà đất Quân khu 7 xin mua hóa giá căn nhà trên theo Nghị định 61/CP thì bà H và ông T khiếu nại không đồng ý cho bà L mua nhà trên theo chế độ của cụ T.

Năm 2001 – Biên bản giải quyết khiếu nại: Bà H và ông T khiếu nại việc bà L mua hóa giá nhà. Thanh tra Bộ Quốc phòng đã thỏa thuận với các bên rằng sau khi mua hóa giá, giá trị còn lại của căn nhà sẽ được chia theo thỏa thuận giữa các bên.

Năm 2002 – Bà L được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu: Bà L và chồng (ông Nguyễn Phi H2) được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất sau khi mua hóa giá.

Năm 2007 – Bà H khởi kiện: Bà H nộp đơn khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung là căn nhà số 63 T, cho rằng bà và các thừa kế khác của cụ T phải được hưởng một phần giá trị căn nhà.

Ngày 28/4/2009 – Bản án sơ thẩm số 17/2009/DSST: Tòa án nhân dân Quận D ra phán quyết không chấp nhận yêu cầu của bà H, ông T và các thừa kế khác.

Ngày 14/8/2009 – Bản án phúc thẩm số 1446/2009/DSPT: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hủy bản án sơ thẩm và yêu cầu xét xử lại.

Ngày 20/7/2010 – Bà gửi “Đơn đề nghị hủy hợp đồng mua bán nhà số 63 T” và sau đó rút yêu cầu: Bà có Đơn yêu cầu Tòa  án xác định việc Cục hậu cần Quân khu 7 ký hợp đồng bán nhà số 63 Tcho bà Llà không đúng pháp luật, đề nghị hủy hợp đồng mua bán nhà giữa Cục hậu cần Quân khu 7 với vợ chồng bà L;  công  nhận các thừa kếcủa cụ T được quyền hưởng tiêu  chuẩn của cụ T để được mua  nhà số  63 T.  Ngày  10/8/2010,  bà H có  đơn  rút  lại  yêu  cầu  ngày 20/7/2010.

Ngày 06/3/2014 – Bản án sơ thẩm số 186/2014/DS-ST: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận một phần yêu cầu của bà H, buộc bà L phải chia lại giá trị căn nhà.

Ngày 21/8/2015 – Bản án phúc thẩm số 125/2015/DS-PT: Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận yêu cầu của bà H và công nhận quyền sở hữu của bà L.

Ngày 22/8/2017 – Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm, đề nghị hủy bản án phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ngày 10/4/2018 – Quyết định giám đốc thẩm số 05/2018/DS-GĐT: Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định hủy bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại.

3. Nhận Định Của Tòa Án

Về Quyền Sở Hữu Nhà: Tòa án xác định căn nhà số 63 T là tài sản chung của bà H, ông T và bà L, do có sự thỏa thuận giữa các bên trước khi bà L mua hóa giá nhà.

Về Giấy Ủy Quyền: Giấy ủy quyền của cụ T chỉ cho phép bà L giải quyết các thủ tục liên quan đến căn nhà, không phải là quyền sở hữu toàn bộ căn nhà.

Về Việc Mua Hóa Giá Nhà:

– Tòa căn cứ Điều 188 và Điều 634 BLDS 1995, Quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà.

– Bà L mua hóa giá nhà theo chế độ con liệt sỹ, nhưng việc mua bán này chỉ được thực hiện sau khi có sự thỏa thuận giữa các bên.

Về Tính Ngay Tình Của Bà L: Tòa án nhận định rằng bà L không thể được coi là người ngay tình vì việc mua hóa giá nhà không tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

4. Quyết Định Của Tòa Án

Tòa án nhân dân tối cao đã ra quyết định:

– Chấp nhận kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

– Hủy bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm.

– Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.

5. Bài Học Rút Ra Từ Vụ Án

Xác Định Quyền Sở Hữu Tài Sản: Việc xác định chính xác quyền sở hữu tài sản là yếu tố quan trọng trong các vụ án tranh chấp tài sản. Các tài liệu pháp lý như giấy ủy quyền cần được xem xét kỹ lưỡng.

Tuân Thủ Thủ Tục Pháp Luật Trong Mua Hóa Giá Nhà: Các giao dịch mua hóa giá nhà cần được thực hiện đúng quy định của pháp luật, bao gồm việc thỏa thuận giữa các bên liên quan.

Giải Quyết Hậu Quả Của Hợp Đồng Vô Hiệu: Khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, Tòa án cần định giá lại tài sản theo giá thị trường để đảm bảo quyền lợi của các bên.

6. Luật Sư Tân Bình – Hỗ Trợ Pháp Lý Chuyên Nghiệp

Nếu bạn đang tìm kiếm luật sư chuyên nghiệp để hỗ trợ trong các vụ án liên quan đến Quận Tân Bình hoặc ngoài địa bàn, hãy liên hệ ngay với Luật sư Tân Bình. Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp lý, Luật sư Tân Bình sẽ giúp bạn giải quyết tranh chấp nhanh chóng và bảo vệ quyền lợi tốt nhất. Quy trình tư vấn tại Văn phòng Luật sư của chúng tôi:

1/ Tiếp nhận yêu cầu tư vấn của khách hàng: 

(I) Khách hàng có thể liên hệ qua điện thoại, email hoặc đến trực tiếp văn phòng để đặt lịch hẹn tư vấn. 

(II) Luật sư sẽ lắng nghe và ghi nhận thông tin ban đầu về vụ việc của khách hàng.

2/ Tư vấn điều kiện chấp nhận yêu cầu từ Tòa: Đánh giá khả năng được chấp nhập yêu cầu với mức chia tài sản cao nhất nhưng đóng án phí thấp nhất dựa trên trường hợp thực tế của khách hàng.

3/ Chuẩn bị hồ sơ đầy đủ: bào gồm đơn khởi kiện; giấy tờ chứng minh mối quan hệ với bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan (nếu có), và các tài liệu cần thiết khác.

4/ Làm việc với cơ quan tố tụng: nộp hồ sơ và theo dõi kết quá đối với một số trường hợp tài sản tranh chấp vướng pháp lý như đóng tiền sử dụng đất, tài sản tranh chấp được nhân thừa kế chưa sang tên hay nợ nghĩa vụ tài chính đối với cơ quan thuế,….

5/ Xử lý các vấn đề phát sinh: hỗ trợ khiếu nại nếu bị từ chối thụ lý hoặc gặp khó khăn trong việc xin cấp các giấy tờ làm chứng cứ khi khởi kiện tại Tòa

6/ Đại điện khách hàng: trong các giai đoạn tố tụng liên quan nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp.

Việc Văn phòng Luật sư Trần Toàn Thắng cùng khách hàng giải quyết tranh chấp chia tài thừa kế không chỉ giúp khách hàng tiết kiệm thời gián và tiền bạc mà còn giảm thiểu rủi ro pháp lý nếu có luật sư giàu kinh nghiệm đồng hành. Hãy liên hệ ngay với Văn phòng Luật sư Trần Toàn Thắng để được tư vấn miễn phí và hỗ trợ tận tình!

Chúng tôi cam kết bảo mật thông tin và quyền lợi của khách hàng.

You cannot copy content of this page