Vụ án tranh chấp hợp đồng hợp tác về “Đầu tư dự án trồng nấm” tại Quận Tân Bình: Bài học pháp lý cho các nhà đầu tư cá nhân

Ngày 23/9/2019, Tòa án nhân dân Quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh đã tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án dân sự số 404/2019/DS-ST liên quan đến tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa ông Nguyễn Văn T và Công ty TNHH S. Vụ án phát sinh từ việc góp vốn đầu tư xây dựng hệ thống nhà trồng nấm nhưng dự án không triển khai đúng cam kết, đặt ra nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến hiệu lực hợp đồng và trách nhiệm hoàn trả tiền góp vốn.

1. Tóm tắt nội dung vụ án

Vào ngày 26/4/2016, ông Nguyễn Văn T (nguyên đơn) ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với Công ty TNHH S, góp vốn 100.000.000 đồng để đầu tư dự án xây dựng 11 nhà trồng nấm – Giai đoạn 2 tại trang trại của Chi nhánh Công ty, địa chỉ: 94/1 ấp 1, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, TP.HCM.

Số tiền được bà Nguyễn Thị Q – em ông T – chuyển vào tài khoản công ty. Theo thỏa thuận, trong 3 tháng, công ty sẽ hoàn tất xây dựng và đưa vào sản xuất. Tuy nhiên, chỉ sau vài tháng, dự án bị ngưng trệ, mới xây được 1-3 nhà trồng nấm. Đến cuối năm 2016, Công ty đóng cửa và nộp hồ sơ giải thể. Ông T khởi kiện, yêu cầu hủy hợp đồng và hoàn trả lại toàn bộ số tiền đã góp.

Trình bày của phía bị đơn – Công ty TNHH S

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Long A – Giám đốc: Ông A không trực tiếp tham dự phiên tòa nhưng theo hồ sơ, ông là người góp vốn sáng lập công ty, đồng thời là giám đốc – người đại diện theo pháp luật. Sau một thời gian vận hành giai đoạn 1 của dự án, ông A đã rút vốn và chuyển quyền quản lý lại cho ông Nguyễn Long C, người sau đó đại diện ký kết hợp đồng với ông T.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Long C

Ông C là Phó Giám đốc, được ủy quyền đại diện Công ty TNHH S. Tại tòa, ông C trình bày:

+ Dự án trồng nấm giai đoạn 1 thành công nên muốn mở rộng sang giai đoạn 2 với tổng vốn đầu tư dự kiến khoảng 1,1 tỷ đồng.

+ Ông Nguyễn Văn D1 – một kỹ sư trồng nấm – đã mời gọi ông T cùng một nhà đầu tư khác góp vốn.

+ Công ty đã nhận đủ 100.000.000 đồng từ bà Q và xây được 3 nhà trồng nấm, tuy nhiên gặp khó khăn kỹ thuật và tài chính nên không thể tiếp tục triển khai.

+ Cuối năm 2016, công ty ngừng hoạt động và nộp hồ sơ giải thể tại Chi cục Thuế Quận Tân Bình.

+ Ông C khẳng định hợp đồng hợp tác là rõ ràng, nhưng đầu tư kinh doanh luôn tiềm ẩn rủi ro nên không đồng ý hoàn trả tiền.

2. Diễn biến và các mốc thời gian chính

26/4/2016: Ông Nguyễn Văn T ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với Công ty TNHH S, góp 100.000.000 đồng để đầu tư dự án 11 nhà trồng nấm tại xã Xuân Thới Thượng, Hóc Môn, TP.HCM. Số tiền được bà Nguyễn Thị Q chuyển vào tài khoản công ty.

7/2016: Dự án bị đình trệ, chỉ xây được 1–3 nhà trồng nấm; nội bộ công ty xảy ra mâu thuẫn.

Cuối 2016: Công ty ngừng hoạt động, nộp hồ sơ giải thể. Ông Nguyễn Long A – Giám đốc – rút vốn, giao quyền điều hành cho ông Nguyễn Long C.

11/01/2018: Ông Nguyễn Long C được ủy quyền đại diện Công ty tham gia tố tụng. Ông trình bày: dự án gặp khó khăn kỹ thuật, công ty không đủ vốn triển khai tiếp.

28/7/2017: Ông Nguyễn Văn T nộp đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng và đòi lại tiền đã góp.

23/9/2019: Tòa án Quận Tân Bình xét xử sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T, buộc Công ty hoàn trả 100.000.000 đồng.

3. Nhận định của Tòa án

Hợp đồng hợp tác ngày 26/4/2016 có hiệu lực pháp lý, được ký bởi người có thẩm quyền đại diện công ty. Cụ thể, căn cứ vào hợp đồng hợp tác ngày 26/4/2016 thì Nguyên đơn đã ký hợp đồng với ông Nguyễn Long C; Chức vụ: Phó giám đốc Công ty (theo Giấy ủy quyền số: 10/2015/UQ-NAM SACH ngày 01/7/2015). Căn cứ theo quy định tại Điều 13 Luật doanh nghiệp thì ông C đại diện Công ty ký kết hợp đồng là đúng quy định của pháp luật và theo quy định của Bộ luật Dân sự thì nội dung của hợp đồng không trái quy định của pháp luật nên hợp đồng có giá trị pháp lý và hiệu lực thi hành. Nên Nguyên đơn yêu cầu tuyên bố hợp đồng hợp tác ngày 26/4/2016 vô hiệu là không có căn cứ.

Mặc dù hợp đồng hợp pháp, Công ty đã vi phạm nghĩa vụ thực hiện, không chứng minh được việc triển khai đúng tiến độ, không có chứng từ sử dụng vốn. Cụ thể, theo đại diện Công ty thì Công ty đã xây dựng được 3 nhà trồng nấm chưa đưa vào sản xuất thì ngưng, nhưng lại không có hóa đơn, chứng từ chứng minh đã xây dựng được 3 nhà trồng nấm. Đến cuối năm 2016, Công ty đã nộp hồ sơ lên Chi cục thuế quận Tân Bình yêu cầu giải thể, tháng 12/2016 Chi cục thuế quận Tân Bình đã có xác nhận ngưng mã số thuế và hoạt động. Như vậy, căn cứ vào thỏa thuận của hai bên thì Công ty đã không thực hiện đúng trách nhiệm của mình, vi phạm nghiêm trong thỏa thuận của các bên nên Công ty phải có trách nhiệm hoàn trả lại 100.000.000đ đã nhận. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn, buộc Công ty có trách nhiệm trả lại Nguyên đơn 100.000.000đ.

Công ty ngưng hoạt động mà không hoàn trả khoản vốn góp là trái pháp luật, cần phải bồi hoàn. Tuy nhiên, việc Nguyên đơn yêu cầu cá nhân ông D, ông C mỗi người phải có trách nhiệm trả lại cho Nguyên đơn 50.000.000 đồng khi Công ty không trả là không có căn cứ.

Tòa không chấp nhận yêu cầu tuyên hợp đồng vô hiệu, nhưng buộc Công ty TNHH S hoàn trả tiền góp vốn cho ông T.

4. Quyết định của Tòa án

a) Hủy hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày 26/4/2016 giữa ông T và Công ty TNHH S.

b) Buộc Công ty TNHH S hoàn trả ông Nguyễn Văn T 100.000.000 đồng.

c) Phải trả lãi chậm thanh toán theo quy định pháp luật.

d) Chịu án phí sơ thẩm 5.000.000 đồng; ông T được hoàn lại tiền tạm ứng án phí.

5. Bài học rút ra

Từ vụ án này, có thể rút ra nhiều bài học quan trọng cho nhà đầu tư:

Thẩm tra kỹ năng lực và người đại diện hợp pháp của đối tác kinh doanh.

Làm rõ phương án sử dụng vốn và tiến độ thực hiện dự án trước khi góp vốn.

Thiết lập cơ chế giám sát tài chính và yêu cầu minh bạch trong quá trình thực hiện.

Nên có điều khoản chặt chẽ về trách nhiệm hoàn trả và hậu quả pháp lý trong trường hợp vi phạm hợp đồng.

6. Luật Sư Tân Bình – Hỗ Trợ Pháp Lý Chuyên Nghiệp

Nếu bạn đang tìm kiếm luật sư chuyên nghiệp để hỗ trợ trong các vụ án liên quan đến Quận Tân Bình hoặc ngoài địa bàn, hãy liên hệ ngay với Luật sư Tân Bình. Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp lý, Luật sư Tân Bình sẽ giúp bạn giải quyết tranh chấp nhanh chóng và bảo vệ quyền lợi tốt nhất. Quy trình tư vấn tại Văn phòng Luật sư của chúng tôi:

1/ Tiếp nhận yêu cầu tư vấn của khách hàng: 

(I) Khách hàng có thể liên hệ qua điện thoại, email hoặc đến trực tiếp văn phòng để đặt lịch hẹn tư vấn. 

(II) Luật sư sẽ lắng nghe và ghi nhận thông tin ban đầu về vụ việc của khách hàng.

2/ Tư vấn điều kiện chấp nhận yêu cầu từ Tòa: Đánh giá khả năng được chấp nhập yêu cầu với mức chia tài sản cao nhất nhưng đóng án phí thấp nhất dựa trên trường hợp thực tế của khách hàng.

3/ Chuẩn bị hồ sơ đầy đủ: bào gồm đơn khởi kiện; giấy tờ chứng minh mối quan hệ với bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan (nếu có), và các tài liệu cần thiết khác.

4/ Làm việc với cơ quan tố tụng: nộp hồ sơ và theo dõi kết quá đối với một số trường hợp tài sản tranh chấp vướng pháp lý như đóng tiền sử dụng đất, tài sản tranh chấp được nhân thừa kế chưa sang tên hay nợ nghĩa vụ tài chính đối với cơ quan thuế,….

5/ Xử lý các vấn đề phát sinh: hỗ trợ khiếu nại nếu bị từ chối thụ lý hoặc gặp khó khăn trong việc xin cấp các giấy tờ làm chứng cứ khi khởi kiện tại Tòa

6/ Đại điện khách hàng: trong các giai đoạn tố tụng liên quan nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp.

Việc Văn phòng Luật sư Trần Toàn Thắng cùng khách hàng giải quyết tranh chấp chia tài thừa kế không chỉ giúp khách hàng tiết kiệm thời gián và tiền bạc mà còn giảm thiểu rủi ro pháp lý nếu có luật sư giàu kinh nghiệm đồng hành. Hãy liên hệ ngay với Văn phòng Luật sư Trần Toàn Thắng để được tư vấn miễn phí và hỗ trợ tận tình!

Chúng tôi cam kết bảo mật thông tin và quyền lợi của khách hàng.

You cannot copy content of this page