Bạn có bao giờ tự hỏi liệu những lời khai về việc bị đe dọa, ép buộc trong các giao dịch dân sự có được Tòa án xem xét khi không có bằng chứng cụ thể hay không? Vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và đòi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại tỉnh Đắk Nông là một ví dụ điển hình về vấn đề này, nơi Tòa án chỉ căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để đưa ra phán quyết. Bản án số 50/2025/DS-PT được Tòa án Nhân dân tỉnh Đắk Nông ban hành ngày 20/03/2025 đã làm rõ nhiều khía cạnh pháp lý quan trọng liên quan đến hợp đồng mua bán và nghĩa vụ trả nợ.
1. Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm và quá trình thụ lý
Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án này bao gồm:
– Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông tham gia phiên toà: Ông Dương Phúc Trường – Kiểm sát viên.
– Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Anh Ủng
– Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thế Hạnh và ông Nguyễn Hồng Chương
– Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Vũ Trí – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông
Vụ án được thụ lý số 12/2025/TLPT-DS vào ngày 10/02/2025. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 28/2025/QĐ-PT được ban hành vào ngày 28/02/2025, cho thấy thời gian từ khi thụ lý đến khi có quyết định đưa ra xét xử là 18 ngày.
2. Tóm tắt nội dung vụ án
Vụ án xoay quanh tranh chấp hợp đồng mua bán sầu riêng và việc đòi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
– Nguyên đơn: Bà Trần Thị Th (sinh năm 1975)
– Bị đơn: Bà Trần Thị K (sinh năm 1978) và ông Phạm Tiến H (sinh năm 1973)
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Kiều Văn T (sinh năm 1964)
– Người kháng cáo: Bà Trần Thị K và ông Phạm Tiến H.
3. Diễn biến và các mốc thời gian quan trọng:
– Ngày 21/07/2022: Bà Trần Thị K ký hợp đồng mua bán sầu riêng với bà Trần Thị Th với số tiền 1.750.000.000 đồng. Sau khi cắt hái sầu riêng, ông H, bà K không thực hiện việc trả tiền theo đúng cam kết. Sau đó, bà K bảo với bà Th thông cảm và nói ông Phạm Tiến H (chồng bà K) cầm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giao cho bà Th giữ lấy lòng tin tiếp tục cho bà K cắt sầu riêng. Tuy nhiên, bà K nói với bà Th “nếu chồng em mà xuống đưa bìa mà hỏi giá mua vườn thì chị nói 1.500.000.000 đồng hộ em nhé” thì bà Th có hỏi tại sao bà Th mua 1.750.000.000 đồng, không nói giá bằng hoặc hơn, lại nói với ông H số tiền 1.500.000.000 đồng, bà Kh nói “chị thông cảm giúp cho em đi, tại vì để ông H yên tâm để em làm cho thoải mái, thứ hai em muốn lấy uy tín của em, tại vì vườn nhà chị lớn mà em còn mua được, để em đi mua mấy vườn khác và em là người trực tiếp trả tiền cho chị chị cứ yên tâm”.
– Ngày 06/08/2022: Ông H (chồng bà K) giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Th giữ để làm tin, với nội dung sau khi trả đủ 1.500.000.000 đồng thì sẽ trả lại giấy chứng nhận. Tại thời điểm này, bà Th nhắn tin Zalo cho bà K xác nhận hợp đồng mua vườn vẫn là 1.750.000.000 đồng, và bà K trả lời “Dạ còn em cứ có trách nhiệm trả đủ chị ok nha”.
– Ngày 11/11/2022: Bà K và ông H xác nhận còn nợ 300.000.000 đồng tiền mua sầu riêng của bà Th và giao lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để đảm bảo. Họ cam kết trả toàn bộ số nợ trong vòng 01 tháng kể từ ngày này.
– Ngày 05/01/2023: Bà K và ông H xác nhận còn nợ bà Th 300.000.000 đồng, hẹn ngày 05/04/2023 trả đầy đủ.
– Ngày 21/03/2023: Bà K và ông H tiếp tục xác nhận còn nợ bà Th 300.000.000 đồng và cam kết trả hết tiền nợ đến ngày 05/04/2023. Tuy nhiên, họ không thực hiện cam kết.
– Tháng 05/2023: Bà K và ông H thông báo không có khả năng trả tiền, cam kết trả lãi hàng tháng 18%/năm trên số tiền nợ 300.000.000 đồng và sẽ trả toàn bộ tiền nợ trong 04 tháng.
– Tháng 08/2023: Bà K và ông H trả cho bà Th 13.500.000 đồng. Vì vậy, bà Th khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên buộc bà K, ông H trả cho bà Th số tiền 300.000.000 đồng và tiền lãi suất còn lại theo quy định của pháp luật.
– Yêu cầu phản tố của bị đơn: Ông H và bà K cho rằng giá trị hợp đồng mua bán sầu riêng chỉ có 1.500.000.000 đồng và họ đã trả đủ số tiền này (1.450.000.000 đồng chuyển khoản và 50.000.000 đồng tiền mặt). Họ yêu cầu bà Th và ông T trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bị đơn cũng trình bày về việc bị ép ký giấy nợ dưới sự đe dọa cụ thể sau khi ông H, bà K hoàn thành nghĩa vụ tài chính, trả đủ số tiền cho vợ chồng bà Th, ông T 1.500.000.000 đồng thì vào ngày 03-01-2023, bà Th có điện cho bà K nói bà K về tại nhà bà Th lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng sau đó bà Th cùng một nhóm côn đồ bắt ép bà K ký vào giấy (Hợp đồng đặt cọc về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất) dưới sự hung hăng côn đồ, để bảo vệ tính mạng nên bà Th phải ký, về đến nhà trong tình trạng tinh thần hoảng loạn. Tiếp theo sự việc sau 04 ngày, ngày 05-01-2023 bà Th cùng đồng bọn côn đồ viết sửa một giấy khất nợ ép vợ chồng ông H, bà K phải ký (vì bìa đỏ đang trong tay của bà Th) và đảm bảo an toàn nên ông H, bà K ký và chấp nhận làm theo ý của bà Th phải trả lãi suất hàng tháng, do ông H, bà K không trả được tiền lãi cho bà Th, bà Th khởi kiện gia đình ông bà.
4. Nhận định của Tòa án:
Tòa án Nhân dân tỉnh Đắk Nông nhận định:
– Hợp đồng mua bán sầu riêng giữa bà Trần Thị K và bà Trần Thị Th có giá 1.750.000.000 đồng, dựa trên các giấy cam kết và văn bản thỏa thuận cuối cùng ngày 21/03/2023 đều thừa nhận còn nợ 300.000.000 đồng.
– Việc bị đơn cho rằng đã trả đủ 1.500.000.000 đồng và đã trả thêm 50.000.000 đồng tiền mặt không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh, nên không có căn cứ chấp nhận.
– Tòa xác định bị đơn đã thanh toán 1.450.000.000 đồng trên tổng số tiền 1.750.000.000 đồng của hợp đồng.
– Việc xác lập nợ 300.000.000 đồng vào ngày 21/03/2023 là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ.
– Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và buộc bị đơn trả số tiền gốc 300.000.000 đồng và tiền lãi chậm trả 51.500.000 đồng là có căn cứ, đúng pháp luật.
– Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn không cung cấp tài liệu, chứng cứ mới cho nội dung kháng cáo về việc bị ép buộc ký giấy nợ, do đó không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị đơn.
5. Quyết định của Tòa án:
Tòa án Nhân dân tỉnh Đắk Nông quyết định:
– Không chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Tiến H và bà Trần Thị K, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 65/2024/DS-ST ngày 24/12/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp.
– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Th đối với ông Phạm Tiến H, bà Trần Thị K.
– Buộc ông Phạm Tiến H và bà Trần Thị K phải trả cho bà Trần Thị Th số tiền 351.500.000 đồng, bao gồm 300.000.000 đồng tiền gốc theo hợp đồng mua bán sầu riêng ngày 21/07/2022 và 51.500.000 đồng tiền lãi chậm trả.
– Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự cho đến khi thi hành án xong.
– Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc ông Phạm Tiến H, bà Trần Thị K phải chịu 17.575.000 đồng án phí. Bà Trần Thị Th phải chịu 300.000 đồng án phí do yêu cầu phản tố của bị đơn được chấp nhận.
– Về án phí dân sự phúc thẩm: Buộc ông Phạm Tiến H và bà Trần Thị K mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí phúc thẩm.
6. Bài học rút ra:
Vụ án này một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của việc thu thập và lưu giữ đầy đủ các tài liệu, chứng cứ trong các giao dịch dân sự, đặc biệt là các giao dịch liên quan đến số tiền lớn. Mọi thỏa thuận, thay đổi hay xác nhận nợ đều cần được thể hiện bằng văn bản rõ ràng và có chữ ký của các bên liên quan. Ngoài ra, việc trình bày các yêu cầu hoặc khiếu nại tại Tòa án cần phải đi kèm với bằng chứng xác thực. Lời khai suông, dù có vẻ hợp lý, nhưng nếu không được chứng minh bằng tài liệu, chứng cứ cụ thể sẽ không được Tòa án chấp nhận. Điều này đặc biệt đúng với những cáo buộc nghiêm trọng như bị đe dọa, ép buộc, đòi hỏi phải có bằng chứng vững chắc để chứng minh tính xác thực của sự việc.
7. Luật Sư Tân Bình – Hỗ Trợ Pháp Lý Chuyên Nghiệp
Nếu bạn đang tìm kiếm luật sư chuyên nghiệp để hỗ trợ trong các vụ án liên quan đến Quận Tân Bình hoặc ngoài địa bàn, hãy liên hệ ngay với Luật sư Tân Bình. Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp lý, Luật sư Tân Bình sẽ giúp bạn giải quyết tranh chấp nhanh chóng và bảo vệ quyền lợi tốt nhất. Quy trình tư vấn tại Văn phòng Luật sư của chúng tôi:
1/ Tiếp nhận yêu cầu tư vấn của khách hàng:
(I) Khách hàng có thể liên hệ qua điện thoại, email hoặc đến trực tiếp văn phòng để đặt lịch hẹn tư vấn.
(II) Luật sư sẽ lắng nghe và ghi nhận thông tin ban đầu về vụ việc của khách hàng.
2/ Tư vấn điều kiện chấp nhận yêu cầu từ Tòa: Đánh giá khả năng được chấp nhập yêu cầu với mức chia tài sản cao nhất nhưng đóng án phí thấp nhất dựa trên trường hợp thực tế của khách hàng.
3/ Chuẩn bị hồ sơ đầy đủ: bào gồm đơn khởi kiện; giấy tờ chứng minh mối quan hệ với bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan (nếu có), và các tài liệu cần thiết khác.
4/ Làm việc với cơ quan tố tụng: nộp hồ sơ và theo dõi kết quá đối với một số trường hợp tài sản tranh chấp vướng pháp lý như đóng tiền sử dụng đất, tài sản tranh chấp được nhân thừa kế chưa sang tên hay nợ nghĩa vụ tài chính đối với cơ quan thuế,….
5/ Xử lý các vấn đề phát sinh: hỗ trợ khiếu nại nếu bị từ chối thụ lý hoặc gặp khó khăn trong việc xin cấp các giấy tờ làm chứng cứ khi khởi kiện tại Tòa
6/ Đại điện khách hàng: trong các giai đoạn tố tụng liên quan nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp.
Việc Văn phòng Luật sư Trần Toàn Thắng cùng khách hàng giải quyết tranh chấp chia tài thừa kế không chỉ giúp khách hàng tiết kiệm thời gián và tiền bạc mà còn giảm thiểu rủi ro pháp lý nếu có luật sư giàu kinh nghiệm đồng hành. Hãy liên hệ ngay với Văn phòng Luật sư Trần Toàn Thắng để được tư vấn miễn phí và hỗ trợ tận tình!
Chúng tôi cam kết bảo mật thông tin và quyền lợi của khách hàng.
- Tranh chấp chia di sản thừa kế
- Tranh chấp đòi lại tên miền
- BẢN ÁN SƠ THẨM VỤ ÁN LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
- Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng
- Xét Xử Vụ Lừa Đảo Cho Vay Tiền Online: Nguyễn Khắc M Bị Tuyên Phạt 12 Tháng Tù