Bài viết này sẽ tóm tắt chi tiết bản án số 61/2024/DS-ST về vụ án “Tranh chấp yêu cầu vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn ông Lưu B và bị đơn ông Phạm Thành C, bà Phan Thị Tuyết N, được xét xử tại Tòa án Nhân dân huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Vụ án tập trung vào việc xác định bản chất của giao dịch giữa các bên là hợp đồng vay tài sản hay hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
1. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm
Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
– Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Phương Trúc.
– Các Hội thẩm nhân dân: Bà Ngô Hồng Điệp và bà Nguyễn Thị Bích Phượng.
– Thư ký phiên tòa: Bà Phan Thị Hương Thư.
– Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Xuân Thùy – Kiểm sát viên.
Thông tin sơ lược về đương sự
– Nguyên đơn: Ông Lưu B, sinh năm 1978. Địa chỉ: ấp B, xã T, huyện C, tỉnh Long An. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Phan Bá T, sinh năm 1975, địa chỉ: Khu H, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An.
– Bị đơn:
+ Ông Phạm Thành C, sinh năm 1989. Địa chỉ: ấp M, xã L, huyện C, tỉnh Long An.
+ Bà Phan Thị Tuyết N, sinh năm 1989. Địa chỉ: ấp H, xã L, huyện C, tỉnh Long An.
+ Cả hai bị đơn đều có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Thời gian thụ lý đến khi có quyết định đưa ra xét xử
– Ngày 04/4/2024: Vụ án được thụ lý số 174/2024/TLST-DS.
– Ngày 30/7/2024: Tòa án ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2024/QĐXXST-DS.
– Ngày 23/8/2024: Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án.
2. Tóm tắt nội dung vụ án
Theo trình bày của nguyên đơn ông Lưu B (do ông Phan Bá T đại diện), vào ngày 11/10/2023, ông B đã cho vợ chồng ông Phạm Thành C và bà Phan Thị Tuyết N vay số tiền 200.000.000 đồng, với thỏa thuận lãi suất 3%/tháng. Thời hạn trả nợ không được thỏa thuận cụ thể, nhưng khi ông B cần lấy lại vốn thì sẽ báo trước 01 tháng. Vợ chồng ông C, bà N không trả bất kỳ khoản lãi nào kể từ khi vay.
Để đảm bảo cho khoản vay, vào cùng ngày 11/10/2023, vợ chồng ông C, bà N đã ký với ông B một Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (HĐCNQSDĐ) công chứng số 7667 tại Văn phòng C1, đối với thửa đất số 3627 (diện tích
222m2) và thửa đất số 973 (diện tích 179m2), cùng thuộc tờ bản đồ số 2, địa chỉ tại ấp M, xã L, huyện C, tỉnh Long An. Đồng thời, vợ chồng ông C, bà N đã giao bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số DI 634983 (thửa 973) và DI 634984 (thửa 3627) cho ông B giữ. Ông B hiện vẫn giữ bản chính GCNQSDĐ và không làm thủ tục chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp.
Ông B khẳng định việc ký HĐCNQSDĐ ngày 11/10/2023 chỉ nhằm mục đích đảm bảo cho khoản vay 200.000.000 đồng, chứ không phải ý chí chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ông C, bà N cũng không tiến hành giao đất cho ông B. Do đó, ông B cho rằng việc hai bên ký HĐCNQSDĐ là giả tạo nhằm che giấu hợp đồng vay.
Ông B khởi kiện yêu cầu:
– Tuyên vô hiệu HĐCNQSDĐ công chứng số 7667.
– Yêu cầu vợ chồng ông C, bà N liên đới trả số tiền nợ gốc 200.000.000 đồng và tiền lãi tính đến ngày 21/02/2024 là 26.000.000 đồng (200.000.000×3%/thaˊng×4 tháng 10 ngày), tổng cộng là 226.000.000 đồng. Ngoài ra, yêu cầu tính lãi trên số nợ gốc 200.000.000 đồng từ ngày 21/02/2024 đến khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm với lãi suất 20%/năm.
– Ông B tự nguyện trả lại 02 bản chính GCNQSDĐ khi vợ chồng ông C, bà N trả lại tiền.
Tại phiên tòa, ông Phan Bá T (đại diện ông B) xác định ông B không yêu cầu giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu và thay đổi yêu cầu tính lãi suất 20% từ lúc vay tiền cho đến thời điểm xét xử sơ thẩm.
Về phía bị đơn, ông Phạm Thành C và bà Phan Thị Tuyết N thừa nhận ngày 11/10/2023 có vay ông B số tiền 200.000.000 đồng với lãi suất 03%/tháng và không thỏa thuận thời gian vay. Do làm ăn thất bại, ông bà không trả bất kỳ khoản tiền gốc và lãi nào. Ông bà cũng thừa nhận có ký HĐCNQSDĐ và giao 02 bản chính GCNQSDĐ cho ông B giữ để đảm bảo khoản vay. Tuy nhiên, ông C và bà N không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông B vì cho rằng hợp đồng chuyển nhượng đã ký xong và ông B có quyền liên hệ cơ quan chức năng để cấp GCNQSDĐ. Ông bà hiện đã mất khả năng chi trả và không thể trả số tiền vay cho ông B.
Văn phòng C1, nơi công chứng HĐCNQSDĐ, trình bày rằng hợp đồng được thực hiện trên cơ sở tự nguyện giữa các bên và đúng trình tự thủ tục nên không đồng ý hủy. Văn phòng C1 cho rằng việc vô hiệu hợp đồng không phải do lỗi của Văn phòng công chứng.
3. Nhận định của Tòa án
Tòa án nhận định rằng về thủ tục tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Quan hệ tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cần Đước. Các bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng có yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt.
Đối với yêu cầu vô hiệu HĐCNQSDĐ: Tòa án xác định các đương sự đều thống nhất rằng mục đích ký HĐCNQSDĐ là để đảm bảo cho hợp đồng vay, không phải để chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Thực tế, thửa đất vẫn do vợ chồng ông C, bà N quản lý sử dụng và không có việc giao đất cho ông B. Do đó, Tòa án xác định việc ký kết HĐCNQSDĐ là giả tạo nhằm che giấu hợp đồng vay tài sản giữa các bên. Căn cứ khoản 1 Điều 124 Bộ luật Dân sự, HĐCNQSDĐ công chứng số 7667 ngày 11/10/2023 là vô hiệu do giả tạo, nên yêu cầu của ông Lưu B là có căn cứ. Các bên đương sự không yêu cầu giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu nên Tòa án không xét.
Đối với yêu cầu trả lại tiền vay và tiền lãi: Dựa trên Giấy vay tiền ngày 11/10/2023 và sự thừa nhận của ông C, bà N, Tòa án xác định vợ chồng ông C, bà N còn nợ ông B số tiền vay 200.000.000 đồng. Về tiền lãi, Tòa án căn cứ Giấy vay tiền xác định đây là hợp đồng vay không kỳ hạn và có lãi suất 3%/tháng. Mặc dù hợp đồng không kỳ hạn, ông B đã gửi Thông báo yêu cầu trả nợ cho ông C, bà N nhưng họ không thực hiện. Do đó, Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 để tính tiền lãi. Số tiền lãi mà ông C, bà N phải trả cho ông B là 34.666.666 đồng (
200.000.000×20%/na˘m×10 tháng 12 ngày). Tổng số tiền vốn và lãi mà ông C và bà N phải trả là 234.666.666 đồng.
Tòa án cũng ghi nhận việc ông Lưu B tự nguyện trả lại bản chính GCNQSDĐ cho vợ chồng ông C, bà N khi họ trả tiền.
4. Quyết định của Tòa án
Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lưu B.
– Tuyên bố: HĐCNQSDĐ công chứng số 7667, quyển số 10/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/10/2023 lập tại VPCC Lê Hồng Bảo Trân giữa ông Lưu B và ông Phạm Thành C, bà Phan Thị Tuyết N là vô hiệu.
– Buộc: Ông Phạm Thành C và bà Phan Thị Tuyết N có trách nhiệm liên đới trả cho ông Lưu B số tiền vay vốn là 200.000.000 đồng và tiền lãi là 34.666.666 đồng, tổng cộng: 234.666.666 đồng. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, bên phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 375, Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
– Ghi nhận: Ông Lưu B tự nguyện trả lại cho ông Phạm Thành C và bà Phan Thị Tuyết N bản chính GCNQSDĐ số DI 634983 và DI 634984 đối với các thửa đất số 973 (diện tích 179m2) và thửa đất 3624 (diện tích 222m2) tại ấp Hựu Lộc, xã Long Hựu Tây. Trong trường hợp ông B không giao trả, ông C và bà N có quyền liên hệ Cơ quan Tài nguyên và Môi trường, Cơ quan Đăng ký đất đai có thẩm quyền để làm thủ tục đăng ký cấp lại GCNQSDĐ.
– Về án phí: Ông Phạm Thành C và bà Phan Thị Tuyết N có nghĩa vụ liên đới nộp 300.000 đồng án phí dân sự không giá ngạch và 11.733.333 đồng án phí dân sự có giá ngạch. Hoàn trả cho ông Lưu B 5.950.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp.
– Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định.
5. Bài học rút ra
Vụ án này một lần nữa khẳng định nguyên tắc “bản chất giao dịch” trong pháp luật dân sự Việt Nam. Dù các bên có thể “khoác” một hình thức giao dịch này lên một giao dịch khác, nhưng nếu chứng minh được ý chí thực sự của các bên, Tòa án sẽ xem xét bản chất thực của giao dịch đó. Cụ thể, các bài học quan trọng bao gồm:
– Minh bạch trong các giao dịch dân sự: Các bên cần ghi rõ và chính xác bản chất của giao dịch, tránh việc dùng hợp đồng này để che giấu hợp đồng khác, dễ dẫn đến tranh chấp và rủi ro pháp lý.
– Hậu quả của hợp đồng giả tạo: Hợp đồng giả tạo sẽ bị tuyên vô hiệu, và giao dịch bị che giấu (nếu không vi phạm pháp luật) sẽ được công nhận. Điều này có thể ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích của các bên.
– Hiểu rõ các quy định về vay tài sản: Việc thỏa thuận lãi suất cần tuân thủ quy định của pháp luật để tránh tranh chấp về sau. Trong trường hợp không có kỳ hạn, nghĩa vụ trả nợ sẽ phát sinh khi bên cho vay yêu cầu.
– Tầm quan trọng của bằng chứng: Các chứng cứ như giấy vay tiền, lời khai thống nhất của các bên về mục đích giao dịch, và việc không thực hiện các điều khoản của hợp đồng giả tạo (ví dụ: không giao nhận đất) là cơ sở quan trọng để Tòa án đưa ra phán quyết.
– Khả năng tự nguyện trả lại tài sản đảm bảo: Việc nguyên đơn tự nguyện trả lại GCNQSDĐ thể hiện thiện chí và tuân thủ các quy định pháp luật về hậu quả của hợp đồng vô hiệu, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án.
6. Luật Sư Tân Bình – Hỗ Trợ Pháp Lý Chuyên Nghiệp
Nếu bạn đang tìm kiếm luật sư chuyên nghiệp để hỗ trợ trong các vụ án liên quan đến Quận Tân Bình hoặc ngoài địa bàn, hãy liên hệ ngay với Luật sư Tân Bình. Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp lý, Luật sư Tân Bình sẽ giúp bạn giải quyết tranh chấp nhanh chóng và bảo vệ quyền lợi tốt nhất. Quy trình tư vấn tại Văn phòng Luật sư của chúng tôi:
1/ Tiếp nhận yêu cầu tư vấn của khách hàng:
(I) Khách hàng có thể liên hệ qua điện thoại, email hoặc đến trực tiếp văn phòng để đặt lịch hẹn tư vấn.
(II) Luật sư sẽ lắng nghe và ghi nhận thông tin ban đầu về vụ việc của khách hàng.
2/ Tư vấn điều kiện chấp nhận yêu cầu từ Tòa: Đánh giá khả năng được chấp nhập yêu cầu với mức chia tài sản cao nhất nhưng đóng án phí thấp nhất dựa trên trường hợp thực tế của khách hàng.
3/ Chuẩn bị hồ sơ đầy đủ: bào gồm đơn khởi kiện; giấy tờ chứng minh mối quan hệ với bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan (nếu có), và các tài liệu cần thiết khác.
4/ Làm việc với cơ quan tố tụng: nộp hồ sơ và theo dõi kết quá đối với một số trường hợp tài sản tranh chấp vướng pháp lý như đóng tiền sử dụng đất, tài sản tranh chấp được nhân thừa kế chưa sang tên hay nợ nghĩa vụ tài chính đối với cơ quan thuế,….
5/ Xử lý các vấn đề phát sinh: hỗ trợ khiếu nại nếu bị từ chối thụ lý hoặc gặp khó khăn trong việc xin cấp các giấy tờ làm chứng cứ khi khởi kiện tại Tòa
6/ Đại điện khách hàng: trong các giai đoạn tố tụng liên quan nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp.
Việc Văn phòng Luật sư Trần Toàn Thắng cùng khách hàng giải quyết tranh chấp chia tài thừa kế không chỉ giúp khách hàng tiết kiệm thời gián và tiền bạc mà còn giảm thiểu rủi ro pháp lý nếu có luật sư giàu kinh nghiệm đồng hành. Hãy liên hệ ngay với Văn phòng Luật sư Trần Toàn Thắng để được tư vấn miễn phí và hỗ trợ tận tình!
Chúng tôi cam kết bảo mật thông tin và quyền lợi của khách hàng.