Vụ Án Tranh Chấp Hợp Đồng Vay Tài Sản Tại Huyện Cần Đước, Long An: Bài Học Về Giao Dịch Không Thế Chấp

Vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” số 84/2024/DS-ST, diễn ra tại Tòa án nhân dân huyện Cần Đước, tỉnh Long An vào ngày 11 tháng 9 năm 2024, làm nổi bật những rủi ro khi giao dịch tài chính thiếu các văn bản pháp lý chặt chẽ như hợp đồng thế chấp hay đăng ký giao dịch đảm bảo. Vụ án liên quan đến khoản vay 150.000.000 đồng giữa ông Nguyễn Thành T (nguyên đơn) và bà Nguyễn Thị T1 (bị đơn), cùng với sự xuất hiện của người trung gian, đặt ra nhiều vấn đề pháp lý cần được phân tích.

1. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm

Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Phương Trúc

Các Hội thẩm nhân dân:

+ Ông Trương Thành Phương

+ Ông Lê Trọng Hiếu

Thư ký phiên tòa: Bà Phan Thị Hương – Thư ký Tòa án, Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Long An

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Long An: Ông Nguyễn Thanh Phong – Kiểm sát viên

Thông tin sơ lược về Bị đơn

Bị đơn trong vụ án là bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1980, trú tại số B, tổ H, ấp A, xã L, huyện C, tỉnh Long An. Bà Nguyễn Thị T1 có mặt tại phiên tòa.

Thời gian thụ lý và đưa ra xét xử

– Vụ án được Tòa án nhân dân huyện Cần Đước thụ lý số 264/2024/TLST-DS vào ngày 22 tháng 5 năm 2024. Sau đó, Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 89/2024/QĐXXST-DS vào ngày 08 tháng 8 năm 2024.

– Phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai diễn ra vào ngày 11 tháng 9 năm 2024.

2. Tóm tắt nội dung vụ án

Theo trình bày của nguyên đơn ông Nguyễn Thành T (do ông Nguyễn Khoa N đại diện ủy quyền), vào ngày 25/4/2023, ông T cho bà Nguyễn Thị T1 vay số tiền 150.000.000 đồng với thời hạn 12 tháng (từ 25/4/2023 đến 25/4/2024) và lãi suất 1,5%/tháng, trả lãi vào ngày 25 hàng tháng. Việc vay mượn có văn bản và chữ ký, dấu lăn tay của bà T1, đồng thời ông T đã giao đủ tiền cho bà T1 ngay trong ngày 25/4/2023. Để đảm bảo khoản vay, bà T1 đã giao cho ông T bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CV 235310.

Tuy nhiên, bà T1 đã không thực hiện đúng thỏa thuận về việc trả lãi và gốc, chưa thanh toán bất kỳ khoản tiền nào cho ông T. Do đó, ông T khởi kiện yêu cầu bà T1 trả nợ gốc 150.000.000 đồng, tiền lãi trong hạn 27.000.000 đồng (tính từ 25/4/2023 đến 25/4/2024), và tiền lãi quá hạn 15.187.500 đồng (tính từ 26/4/2024 đến 11/9/2024). Ông T cũng yêu cầu tiếp tục tính lãi cho đến khi bà T1 thanh toán xong và tự nguyện trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi bà T1 hoàn tất nghĩa vụ trả nợ.

Bà T1 thừa nhận có vay 150.000.000 đồng của ông T, nhưng khai rằng thực tế chỉ nhận được 52.000.000 đồng vào ngày 25/4/2023, do ông T đã trừ 80.000.000 đồng để trả nợ cũ cho ông T3, 10.500.000 đồng phí dịch vụ (7%) và 7.500.000 đồng tiền lãi tháng đầu tiên (5%). Bà T1 cũng trình bày đã đóng lãi 7.500.000 đồng/tháng cho ông T từ 25/5/2023 đến 25/9/2023, tổng cộng 37.500.000 đồng, thông qua ông Nguyễn Văn T2 và bà Võ Thị Xuân D, nhưng không có biên bản giao nhận tiền. Bà T1 chỉ đồng ý trả nợ gốc 132.000.000 đồng và lãi từ 25/5/2023 với lãi suất 1,5%, yêu cầu khấu trừ 37.500.000 đồng tiền lãi đã trả vào vốn gốc.

3. Diễn biến và các mốc thời gian quan trọng

  • 25/4/2023: Ông Nguyễn Thành T cho bà Nguyễn Thị T1 vay 150.000.000 đồng, thời hạn 12 tháng, lãi suất 1,5%/tháng. Ông T giao đủ tiền và bà T1 giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
  • 24/4/2023: Bà T1 ký vào Giấy vay tiền.
  • 25/4/2023: Ông T2 nhận 52.000.000 đồng từ bà D và giao lại cho bà T1.
  • 25/5/2023 – 25/9/2023: Bà T1 đóng lãi 7.500.000 đồng/tháng (tổng 37.500.000 đồng) thông qua ông T2 và bà D.
  • 02/5/2024: Ông Nguyễn Thành T nộp đơn khởi kiện.
  • 22/5/2024: Vụ án được thụ lý số 264/2024/TLST-DS.
  • 01/8/2024: Biên bản làm việc với bị đơn bà Nguyễn Thị T1.
  • 08/8/2024: Biên bản hòa giải và Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 89/2024/QĐXXST-DS.
  • 11/9/2024: Phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai.

4. Nhận định của Tòa án

Tòa án nhận định đây là vụ kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cần Đước, tỉnh Long An.

Về số tiền vốn tranh chấp, Tòa án căn cứ vào việc bà T1 đã tự nguyện ký tên vào Giấy vay tiền ngày 25/4/2023, trong đó có đoạn “Ngay sau ký Giấy vay tiền này, Bên A (ông T) đã giao số tiền 150.000.000 đồng cho Bên B (bà T1)”. Việc bà T1 thừa nhận đã trả lãi 7.500.000 đồng/tháng (tương ứng lãi suất 5%/tháng của 150.000.000 đồng) cũng chứng tỏ bà T1 đã vay đủ 150.000.000 đồng. Do đó, Tòa án xác định số tiền vay thực tế là 150.000.000 đồng và chấp nhận yêu cầu của ông T về khoản nợ gốc này.

Đối với yêu cầu trả lãi, Tòa án ghi nhận bà T1 không cung cấp được chứng cứ chứng minh việc đã trả lãi và ông T không thừa nhận. Mặc dù bà D thừa nhận đã nhận tiền lãi từ bà T1 (do ông T2 giao hộ) để đưa cho ông T, nhưng không có cơ sở để xác định ông T đã thực sự nhận được khoản tiền này từ bà D. Căn cứ Giấy vay tiền ngày 25/4/2023, Tòa án buộc bà T1 phải thanh toán lãi trong hạn là 27.000.000 đồng và lãi quá hạn là 15.187.500 đồng. Tổng số tiền bà T1 phải trả là 192.187.500 đồng. Tòa án cũng nêu rõ nếu bà T1 và bà D cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm, họ có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.

Về bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Tòa án nhận định việc bà T1 giao giấy tờ này cho ông T không có hợp đồng thế chấp và không đăng ký giao dịch đảm bảo theo quy định pháp luật. Do đó, Tòa án buộc ông T phải trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T1.

5. Quyết định của Tòa án

Căn cứ vào các quy định pháp luật liên quan, Tòa án quyết định:

  1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thành T về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” đối với bà Nguyễn Thị T1.
  2. Buộc bà Nguyễn Thị T1 có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Thành T tổng số tiền vốn vay và lãi là 192.187.500 đồng.
  3. Bà T1 phải chịu thêm khoản tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong.
  4. Buộc ông Nguyễn Thành T trả lại cho bà Nguyễn Thị T1 bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CV 235310.
  5. Về án phí: Buộc bà Nguyễn Thị T1 phải chịu 9.609.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại cho ông Nguyễn Thành T 4.442.000 đồng tiền tạm ứng án phí.
  6. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

6. Bài học rút ra

Vụ án này là một lời nhắc nhở quan trọng về tầm quan trọng của việc lập và thực hiện hợp đồng vay tài sản một cách chặt chẽ, đặc biệt khi có các yếu tố trung gian và tài sản đảm bảo:

  • Tính minh bạch của khoản vay: Cần đảm bảo rằng số tiền thực tế được giao nhận phải trùng khớp với số tiền ghi trong hợp đồng. Mọi khoản trừ phí dịch vụ hay lãi suất ban đầu phải được ghi rõ ràng và có sự đồng thuận của cả hai bên trong văn bản.
  • Chứng cứ giao nhận tiền: Việc giao nhận tiền (gốc và lãi) phải luôn được lập thành biên bản hoặc có các chứng cứ khác (như sao kê ngân hàng, tin nhắn xác nhận) để tránh tranh chấp sau này. Việc thông qua người trung gian mà không có biên bản xác nhận cụ thể sẽ gây khó khăn trong việc chứng minh nghĩa vụ đã được thực hiện.
  • Hợp đồng thế chấp rõ ràng: Đối với các giao dịch có tài sản đảm bảo như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cần thiết phải lập hợp đồng thế chấp và thực hiện đăng ký giao dịch đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật. Nếu không, tài sản đảm bảo sẽ không có giá trị pháp lý và không được Tòa án công nhận là biện pháp đảm bảo cho khoản vay.
  • Vai trò của người trung gian: Người trung gian cần hiểu rõ vai trò và trách nhiệm của mình, đồng thời đảm bảo mọi giao dịch qua họ đều được minh bạch và có bằng chứng rõ ràng. Trong trường hợp này, việc bà D nhận tiền lãi từ bà T1 nhưng không có biên nhận và ông T không xác nhận đã nhận được tiền đã gây ra phức tạp trong quá trình xét xử.
  • Tầm quan trọng của pháp luật: Việc tuân thủ Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự và các nghị quyết liên quan là tối quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong giao dịch dân sự.

7. Luật Sư Tân Bình – Hỗ Trợ Pháp Lý Chuyên Nghiệp

Nếu bạn đang tìm kiếm luật sư chuyên nghiệp để hỗ trợ trong các vụ án liên quan đến Quận Tân Bình hoặc ngoài địa bàn, hãy liên hệ ngay với Luật sư Tân Bình. Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp lý, Luật sư Tân Bình sẽ giúp bạn giải quyết tranh chấp nhanh chóng và bảo vệ quyền lợi tốt nhất. Quy trình tư vấn tại Văn phòng Luật sư của chúng tôi:

1/ Tiếp nhận yêu cầu tư vấn của khách hàng: 

(I) Khách hàng có thể liên hệ qua điện thoại, email hoặc đến trực tiếp văn phòng để đặt lịch hẹn tư vấn. 

(II) Luật sư sẽ lắng nghe và ghi nhận thông tin ban đầu về vụ việc của khách hàng.

2/ Tư vấn điều kiện chấp nhận yêu cầu từ Tòa: Đánh giá khả năng được chấp nhập yêu cầu với mức chia tài sản cao nhất nhưng đóng án phí thấp nhất dựa trên trường hợp thực tế của khách hàng.

3/ Chuẩn bị hồ sơ đầy đủ: bào gồm đơn khởi kiện; giấy tờ chứng minh mối quan hệ với bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan (nếu có), và các tài liệu cần thiết khác.

4/ Làm việc với cơ quan tố tụng: nộp hồ sơ và theo dõi kết quá đối với một số trường hợp tài sản tranh chấp vướng pháp lý như đóng tiền sử dụng đất, tài sản tranh chấp được nhân thừa kế chưa sang tên hay nợ nghĩa vụ tài chính đối với cơ quan thuế,….

5/ Xử lý các vấn đề phát sinh: hỗ trợ khiếu nại nếu bị từ chối thụ lý hoặc gặp khó khăn trong việc xin cấp các giấy tờ làm chứng cứ khi khởi kiện tại Tòa

6/ Đại điện khách hàng: trong các giai đoạn tố tụng liên quan nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp.

Việc Văn phòng Luật sư Trần Toàn Thắng cùng khách hàng giải quyết tranh chấp chia tài thừa kế không chỉ giúp khách hàng tiết kiệm thời gián và tiền bạc mà còn giảm thiểu rủi ro pháp lý nếu có luật sư giàu kinh nghiệm đồng hành. Hãy liên hệ ngay với Văn phòng Luật sư Trần Toàn Thắng để được tư vấn miễn phí và hỗ trợ tận tình!

Chúng tôi cam kết bảo mật thông tin và quyền lợi của khách hàng.

You cannot copy content of this page