Vụ án Lê Phạm Thu T, được xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, là một trường hợp pháp lý điển hình về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Bản án số 50/2025/HS-ST, ngày 18/3/2025, đã làm rõ hành vi lợi dụng lòng tin để thực hiện hành vi trái pháp luật.
1. Hội đồng xét xử sơ thẩm
Phiên tòa xét xử sơ thẩm được tiến hành với sự tham gia của các thành viên Hội đồng xét xử:
– Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thanh Phong.
– Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Văn Du và Bà Trương Thị Bích Vân.
– Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Hồng Vân – Thư ký Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một.
– Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một tham gia phiên tòa: Ông Lê Minh Điền – Kiểm sát viên.
Thông tin sơ lược về bị cáo
– Bị cáo Lê Phạm Thu T, sinh ngày 29/5/1994, tại tỉnh Sóc Trăng. Bị cáo có trình độ học vấn 8/12, không có nghề nghiệp, dân tộc Kinh, giới tính nữ, không theo tôn giáo nào. Bị cáo chưa có chồng con và không có tiền án, tiền sự.
– Bị cáo bị bắt ngày 24/10/2024 và tạm giam cho đến nay.
Thời gian khởi tố vụ án, khởi tố bị can, thụ lý đến khi có quyết định đưa ra xét xử
– Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T ra Quyết định khởi tố bị can đối với Lê Phạm Thu T về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” vào ngày 23/02/2024.
– Vụ án được thụ lý số 25/2025/TLST-HS vào ngày 14/02/2025. Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2025/QĐXXST-HS được ban hành vào ngày 06/3/2025.
– Phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai diễn ra vào ngày 18/3/2025.
2. Tóm tắt nội dung vụ án
Lê Phạm Thu T, trú tại Sóc Trăng, và chị Nguyễn Thị Quỳnh N, trú tại Đồng Tháp, có mối quan hệ đồng tính nữ và cùng chung sống tại phòng trọ số 1, nhà trọ Nguyễn Văn T1, địa chỉ tại số A, khu phố B, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Vào khoảng 09 giờ ngày 27/02/2019, T đã mượn xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đen-đỏ, biển số 66B1-470.92 của chị N để đi công việc, và trong cốp xe có Giấy chứng minh nhân dân cùng Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô. Sau khi mượn được xe, T đã đem xe đến tiệm C của ông Liêu Anh K và cầm được 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng). T nói với ông K rằng xe của chị N là người yêu T và chị N bận việc nên T đem xe đi cầm. Sau khi cầm xe, T nhắn tin cho chị N biết là đã đem xe đi cầm rồi bỏ trốn.
3. Diễn biến và các mốc thời gian quan trọng
– 27/02/2019: Lê Phạm Thu T mượn xe của chị Nguyễn Thị Quỳnh N và đem đi cầm cố với số tiền 15.000.000 đồng.
– 01/3/2019: Chị N đến Công an phường P, tỉnh Bình Dương trình báo sự việc. Công an phường P lập hồ sơ, thu giữ vật chứng là xe mô tô và chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T để thụ lý.
– 12/4/2019: Bản kết luận định giá tài sản số 98/KL-HĐĐGTS của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong Tố tụng hình sự thành phố T kết luận giá trị xe mô tô là 31.000.000 đồng (ba mươi mốt triệu đồng).
– 18/4/2019: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã lập biên bản giao trả xe mô tô cho chị Nguyễn Thị Quỳnh N. Chị N không có yêu cầu gì khác đối với Lê Phạm Thu T.
– 23/02/2024: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T ra Quyết định khởi tố bị can đối với Lê Phạm Thu T về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
– 27/02/2024: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T ra Quyết định truy nã đối với Lê Phạm Thu T.
– 24/10/2024: Lê Phạm Thu T bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh B bắt theo quyết định truy nã.
– 14/02/2025: Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ban hành Cáo trạng số 34/CT-VKS-HS, truy tố bị cáo Lê Phạm Thu T về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
– 18/3/2025: Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án.
3. Nhận định của Tòa án
Tòa án nhận định rằng các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đều được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật. Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội tại phiên tòa, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản ghi lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ, cùng những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Hành vi của Lê Phạm Thu T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo T theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
Tòa án cũng nhận định rằng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự, trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam tư lợi mà đã bất chấp thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi mà bị cáo đã thực hiện để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tài sản đã được thu hồi, hoàn trả cho bị hại, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tòa án xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.
4. Quyết định của Tòa án
Căn cứ vào các Điều 136, 260, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, Tòa án quyết định:
– Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Lê Phạm Thu T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1, Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lê Phạm Thu T 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/10/2024.
– Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 584, Điều 585, Điều 586 và Điều 589 của Bộ luật Dân sự 2015; Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao , buộc bị cáo Lê Phạm Thu T trả lại cho ông Liêu A Kiệt số tiền 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng). Kể từ ngày án có hiệu lực thi hành và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa bồi thường hoặc bồi thường không đầy đủ thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
– Về án phí: Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 750.000 đồng (bảy trăm năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.
5. Bài học rút ra
Vụ án Lê Phạm Thu T là lời cảnh tỉnh về việc lợi dụng lòng tin để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Nó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cảnh giác trong các giao dịch tài sản và sự cần thiết của các biện pháp pháp lý để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân. Đồng thời, vụ án cũng cho thấy sự nghiêm minh của pháp luật trong việc xử lý các tội danh liên quan đến chiếm đoạt tài sản, nhằm răn đe và giáo dục những người có ý định phạm tội.
6. Luật Sư Tân Bình – Hỗ Trợ Pháp Lý Chuyên Nghiệp
Nếu bạn đang tìm kiếm luật sư chuyên nghiệp để hỗ trợ trong các vụ án liên quan đến Quận Tân Bình hoặc ngoài địa bàn, hãy liên hệ ngay với Luật sư Tân Bình. Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp lý, Luật sư Tân Bình sẽ giúp bạn giải quyết tranh chấp nhanh chóng và bảo vệ quyền lợi tốt nhất. Quy trình tư vấn tại Văn phòng Luật sư của chúng tôi:
1/ Tiếp nhận yêu cầu tư vấn của khách hàng:
(I) Khách hàng có thể liên hệ qua điện thoại, email hoặc đến trực tiếp văn phòng để đặt lịch hẹn tư vấn.
(II) Luật sư sẽ lắng nghe và ghi nhận thông tin ban đầu về vụ việc của khách hàng.
2/ Tư vấn điều kiện chấp nhận yêu cầu từ Tòa: Đánh giá khả năng được chấp nhập yêu cầu với mức chia tài sản cao nhất nhưng đóng án phí thấp nhất dựa trên trường hợp thực tế của khách hàng.
3/ Chuẩn bị hồ sơ đầy đủ: bào gồm đơn khởi kiện; giấy tờ chứng minh mối quan hệ với bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan (nếu có), và các tài liệu cần thiết khác.
4/ Làm việc với cơ quan tố tụng: nộp hồ sơ và theo dõi kết quá đối với một số trường hợp tài sản tranh chấp vướng pháp lý như đóng tiền sử dụng đất, tài sản tranh chấp được nhân thừa kế chưa sang tên hay nợ nghĩa vụ tài chính đối với cơ quan thuế,….
5/ Xử lý các vấn đề phát sinh: hỗ trợ khiếu nại nếu bị từ chối thụ lý hoặc gặp khó khăn trong việc xin cấp các giấy tờ làm chứng cứ khi khởi kiện tại Tòa
6/ Đại điện khách hàng: trong các giai đoạn tố tụng liên quan nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp.
Việc Văn phòng Luật sư Trần Toàn Thắng cùng khách hàng giải quyết tranh chấp chia tài thừa kế không chỉ giúp khách hàng tiết kiệm thời gián và tiền bạc mà còn giảm thiểu rủi ro pháp lý nếu có luật sư giàu kinh nghiệm đồng hành. Hãy liên hệ ngay với Văn phòng Luật sư Trần Toàn Thắng để được tư vấn miễn phí và hỗ trợ tận tình!
Chúng tôi cam kết bảo mật thông tin và quyền lợi của khách hàng.
- Hòa Bình: Xét Xử Vụ Lừa Đảo Chiếm Đoạt 100 Triệu Đồng Thông Qua Hợp Đồng Mua Bán Đất Giả
- Tranh chấp quyền sử dụng đất tại xã Cẩm Thanh
- Một số hạn chế, thiếu sót còn tồn tại trong việc bảo vệ bị hại là người chưa thành niên
- Thời hiệu khởi kiện tranh chấp đất đai
- Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai tại huyện Krông Bông