Đòi lại tài sản và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Đòi lại tài sản và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

I. NỘI DUNG VỤ ÁN

Cha mẹ bà Châu Thị N là cụ Châu T (chết năm 1990) và cụ Nguyễn Thị T (chết năm 2009) có 04 người con chung là ông Châu R, bà Châu Thị T (chết năm 2015), bà Châu Thị N, bà Châu Thị G. Ngoài cụ Nguyễn Thị T, cụ Châu T còn chung sống với người vợ thứ 2 là cụ Nguyễn Thị H và có một con chung là ông

Châu V.

Khoảng năm 1971, cụ Châu T tạo lập được lô đất diện tích khoảng 17.000m tại thôn VC, xã SH, huyện K, tỉnh Q. Năm 1986, cụ Châu T cho ông Lê Đ (cháu của cụ Châu T) phần đất có diện tích khoảng 1.900 m2 thuộc lô đất nêu trên. Ngày 25/8/1990, cụ Châu T chết không để lại di chúc, toàn bộ diện tích đất do cụ Châu T để lại được giao cho ông Châu R thay mặt gia đình tạm thời quản lý và sử dụng. Tháng 3/2009, bà Châu Thị N phát hiện ông Châu R đã tự ý chuyển nhượng đất cho ông Nguyễn N mà không được sự đồng ý của các thành viên trong gia đình. Ông Châu R cho biết ông Châu R chỉ chuyển nhượng 5.000 m2 đất cho ông Nguyễn N, phần còn lại không chuyển nhượng. Bà Châu Thị N cho rằng ông Nguyễn N đã tự viết Giấy nhượng đất rẫy và hoa màu đề ngày 09/4/1990 và giả chữ ký của cụ Nguyễn Thị T tại phần người sang nhượng trong Giấy nhượng đất rẫy và hoa màu nhưng Ủy ban nhân dân xã SH vẫn xác nhận vào giấy chuyển nhượng đất nêu trên. Vì vậy, bà Châu Thị N khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 09/4/1990 giữa ông Châu R và ông Nguyễn N đối với thửa đất số 900, tờ bản đồ số 40, diện tích 13.060m; yêu cầu ông Nguyễn N và bà Phạm Thị X trả lại cho bà Châu Thị N toàn bộ thửa đất nêu trên và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 05350 do UBND huyện K cấp ngày 29/5/2015 cho ông Nguyễn N và bà Phạm Thị X.

II. QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2022/DS-ST ngày 10 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh ( tuyên xử

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Châu Thị N về việc: Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất “Giấy nhượng đất rẫy và hoa mầu” lập ngày 09/4/1990 giữa ông Châu R, bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn N, buộc ông Nguyễn N và bà Phạm Thị X trả lại cho bà Châu Thị N toàn bộ thừa đất 900, tờ bản đồ 40, diện tích đo đạc thực tế 13.060,3m và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BV 578230, số vào sổ cấp GCN: CH05350 do Ủy ban nhân dân huyện K cấp ngày 29 tháng 5 năm 2015 cho ông Nguyễn N và bà Phạm Thị X.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H về việc: Buộc ông Nguyễn N và bà Phạm Thị X trả lại cho bà Nguyễn Thị H toàn bộ thửa đất 900, tờ bản đồ 40, diện tích đo đạc thực tế 13.060,3m và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BV 578230, số vào sổ cấp GCN. CH05350 do Ủy ban nhân dân huyện K cấp ngày 29 tháng 5 năm 2015 cho ông Nguyễn N và bà Phạm Thi X.”

Ngày 18/12/2022, bà Châu Thị N, bà Nguyễn Thị H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 223/2023/DS-PT ngày 22/8/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã quyết định hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2022/DS-ST ngày 10/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Q, giao hồ sơ vụ án về cho Tòa án nhân dân tỉnh Q để xét xử lại.

III. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 34/2019/DS-GĐT ngày 04/7/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có nhận định: “.. Từ trước ngày Miền Nam giải phỏng, cụ Châu T sống chung với cụ Nguyễn Thị T (chết năm 2009) và cả 04 người con; sống chung với cụ Nguyễn Thị H và có 01 người con, nên quan hệ giữa cụ Châu T với cụ Nguyễn Thị T và cụ Nguyễn Thị H là hôn nhân thực tế theo quy định tại Điểm a, Mục 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình”, và “…Theo Giấy chứng tử ngày 04/12/2008 thì cụ Châu T chết ngày 25/8/1990. Tuy nhiên, tại Giấy sang nhượng đất rẫy và hoa màu lập ngày 09/4/1990 (được Ủy ban nhân dân xã SH xác nhận cùng ngày) lại có nội dung thể hiện thời điểm lập giấy này cụ Châu T đã chết”.

Sau khi thụ lý lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác minh, thẩm tra nhiều tải liệu, chứng cứ có liên quan và đã nhận định: “… không có cơ sở xác định chính xác cụ Châu T chết ngày tháng năm nào nhưng đủ cơ sở xác định cụ Châu T chết trước ngày 09/4/1990 là ngày cụ Nguyễn Thị T, ông Châu R, ông Nguyễn N lập “Giấy nhượn đất rẫy và hoa mẫu” có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã SH”. Nhận định này của Tòa án cấp sơ thẩm là phù hợp với tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Về xác định hôn nhân thực tế giữa cụ Châu T và cụ Nguyễn Thị H

Sau khi Tòa sơ thẩm thụ lý lại vụ án, bị đơn bà Phạm Thị X cung cấp tài liệu, chứng cử mới là sổ hộ khẩu số 330078475 do Công an xã SH, huyện K, tỉnh Q cấp ngày 28/01/2010 đứng tên cụ Nguyễn Thị H làm chủ hộ; trong đó có tên anh Nguyễn Trung K, sinh ngày 06/8/1974, quan hệ với chủ hộ cụ Nguyễn Thị H là “con”. Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ anh Nguyễn Trung K là con nuôi hay con đẻ của cụ Nguyễn Thị H; trường hợp là con đẻ thì có phải là con chung của cụ Châu T và cụ Nguyên Thị H không, mà đã nhận định: “… Đồng thời, tại số hộ khẩu sổ 330078475 do Công an xã SH, huyện K cấp ngày 28/01/2010 thể hiện cụ Nguyễn Thị H (chủ hộ), nơi thường trú: Tổ 6, thôn HX, xã SH, huyện K có còn tên Nguyễn Trung K, sinh ngày 06/8/1974. Như vậy, trong khoản thời gian từ 1971 để 1974, ngoài người con tên Châu V sinh ngày 03/4/1972 … thì cụ Nguyễn Thị H còn có người con tên là Nguyễn Trung K, sinh ngày 06/8/1974 với người khác… nên không đủ điều kiện áp dụng quy định tại điểm a Điều 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội… “. Nhận định này của cấp sơ thẩm là chưa đủ căn cứ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện ủy quyền của bà Nguyễn Thị Hoa trình bày cũng không biết rõ anh Nguyễn Trung K quan hệ như thế nào? là con nuôi hay con đẻ của cụ Nguyễn Thị H nên Tòa án cấp phúc thẩm đã hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Q để xác minh làm rõ và xét xử lại theo trình tự sơ thẩm, đảm bảo đúng quy định pháp luật.

You cannot copy content of this page