Bạn đã từng tự hỏi, khi ký kết hợp đồng dịch vụ, cần lưu ý những gì để không vi phạm pháp luật và xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình? Thực tiễn cho thấy, việc thiếu hiểu biết hoặc cố ý lợi dụng kẽ hở pháp luật có thể dẫn đến những hậu quả pháp lý nghiêm trọng. Một ví dụ điển hình là vụ án “Gian lận bảo hiểm xã hội” của bị cáo Trần Ái Th diễn ra tại tỉnh Bến Tre, liên quan trực tiếp đến các quy định về bảo hiểm xã hội và trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực này.
1. Thông tin chung về vụ án
– Vụ án được Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vào ngày 06 tháng 5 năm 2022
– Vụ án hình sự này đã được thụ lý số 10/2022/TLST-HS vào ngày 10 tháng 02 năm 2022, và có Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2022/QĐXXST-HS vào ngày 28 tháng 3 năm 2022
2. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm:
– Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Quang Sơn
– Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Hải Hà và Bà Nguyễn Thị Kiều Oanh
– Thư ký phiên tòa: Bà Hồ Thị Yến Nhi
– Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa: Ông Lê Quốc Bảo – Kiểm sát viên.
3. Tóm tắt nội dung vụ án và diễn biến chính
Trong khoảng thời gian từ đầu năm 2019 đến quý I năm 2021, Trần Ái Th, giữ chức Kế toán trưởng kiêm Thủ quỹ Công ty TNHH may mặc S – Bến Tre (Công ty A), có địa chỉ tại ấp An Bình, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, đã thực hiện hành vi gian lận bảo hiểm xã hội.
Cụ thể, Th đã tự lập danh sách khống 37 trường hợp người lao động hưởng chế độ nghỉ dưỡng sức sau khi sinh, mặc dù trên thực tế những người này không có đơn xin nghỉ và vẫn đi làm bình thường. Sau đó, Th sử dụng mật khẩu, con dấu và chữ ký số điện tử của Tổng Giám đốc Công ty S là ông KT để ký vào danh sách đề nghị gửi Bảo hiểm xã hội huyện CT, tỉnh Bến Tre.
Sau khi Bảo hiểm xã hội huyện CT chuyển tiền về tài khoản Công ty S để chi trả chế độ, Th đã lập séc trình ông KT ký rút tiền từ ngân hàng để chi trả chế độ ốm đau, nghỉ thai sản cho người lao động. Còn riêng số tiền nghỉ dưỡng sức sau khi sinh thì Th lập sổ theo dõi riêng và sử dụng vào mục đích cá nhân, với tổng số tiền 94.305.000 đồng.
4. Chi tiết số tiền gian lận theo từng năm:
– Năm 2019: 04 lần với số tiền 43.794.000 đồng
– Năm 2020: 04 lần với số tiền 32.184.000 đồng
– Năm 2021: 01 lần với số tiền 18.327.000 đồng
5. Diễn biến vụ án và các mốc thời gian quan trọng:
– Từ đầu năm 2019 đến quý I năm 2021: Trần Ái Th thực hiện hành vi lập khống hồ sơ gian lận bảo hiểm xã hội.
– Tháng 5/2021: Những người lao động phát hiện việc được hưởng tiền nghỉ dưỡng sức trên hệ thống bảo hiểm điện tử nhưng thực tế không nhận được nên đã gặp Th để hỏi. Sau đó, Th báo cáo Tổng Giám đốc Công ty S do không am hiểu pháp luật về thực hiện chế độ bảo hiểm, làm sai và đề nghị chuyển trả số tiền 94.305.000 đồng về Bảo hiểm xã hội huyện CT, tỉnh Bến Tre. Th sau đó đã nộp tiền mặt vào quỹ Công ty S đúng như số tiền mà Công ty S đã chuyển trả cho Bảo hiểm xã hội huyện CT.
– Ngày 10/3/2022: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre ban hành Bản cáo trạng số 13/CT-VKSBT-P1, truy tố Trần Ái Th về “Tội gian lận bảo hiểm xã hội” theo điểm a khoản 1 Điều 214 Bộ luật Hình sự.
– Ngày 06/5/2022: Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án.
6. Nhận định của Tòa án
Hội đồng xét xử nhận định rằng các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Bến Tre, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đều đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và hợp pháp.
Dựa trên các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo, Tòa án xác định Trần Ái Th đã 09 lần lập khống hồ sơ cho 37 trường hợp người lao động để hưởng chế độ nghỉ dưỡng sau khi sinh, chiếm đoạt tổng số tiền 94.305.000 đồng của Bảo hiểm xã hội huyện CT, tỉnh Bến Tre. Hành vi này của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội, gây thiệt hại tài sản và ảnh hưởng đến chế độ an sinh xã hội.
Tòa án xác định bị cáo Trần Ái Th là thành niên, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý, nhận thức được hành vi lập hồ sơ bảo hiểm xã hội giả lừa dối cơ quan bảo hiểm xã hội chiếm đoạt tiền bảo hiểm xã hội là vi phạm pháp luật. Cáo trạng truy tố bị cáo về “Tội gian lận bảo hiểm xã hội” với tình tiết định khung “lập hồ sơ giả hoặc làm sai lệch nội dung hồ sơ bảo hiểm xã hội lừa dối cơ quan bảo hiểm xã hội” theo điểm a khoản 1 Điều 214 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng quy định pháp luật.
Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo phạm tình tiết tăng nặng “phạm tội hai lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự ; tự nguyện khắc phục hậu quả theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự ; trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc con nhỏ chưa thành niên, quá trình công tác đã lập thành tích được giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Bến Tre tặng giấy khen ; bị cáo phạm tội nhưng thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Qua xem xét tính chất của vụ án, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Tòa án nhận thấy rằng hành vi phạm tội của bị cáo chỉ cần áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền cũng đủ điều kiện để cải tạo giáo dục bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung, đồng thời cũng thể hiện tinh thần nhân đạo của pháp luật. Do hình phạt chính được áp dụng đối với bị cáo là hình phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền theo khoản 4 Điều 214 Bộ luật Hình sự.
Tuy nhiên, bị cáo phạm tội khi đang đảm nhận chức vụ Kế toán trưởng kiêm Thủ quỹ của Công ty S, bị cáo đã lợi dụng vị trí kế toán, kiêm thủ quỹ, lấy danh nghĩa công ty có hành vi gian lận chiếm đoạt số tiền 94.305.000 đồng của Bảo hiểm xã hội huyện CT. Vì vậy, để tăng cường hiệu quả của hình phạt chính đã áp dụng đối với bị cáo đồng thời loại bỏ điều kiện cho việc bị cáo sẽ thực hiện hành vi phạm tội lại nên cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định trong thời gian 05 năm theo quy định tại khoản 4 Điều 214 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.
7. Quyết định của Tòa án
Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre đã tuyên bố bị cáo Trần Ái Th phạm “Tội gian lận bảo hiểm xã hội”.
Quyết định cụ thể:
– Áp dụng: Điểm a khoản 1, khoản 4 Điều 214; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 35, Điều 41 Bộ luật Hình sự.
– Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Trần Ái Th 60.000.000 (sáu mươi triệu) đồng, để nộp vào ngân sách nhà nước.
– Hình phạt bổ sung: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định (Kế toán trưởng, Thủ quỹ) trong thời gian 05 (năm) năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
– Án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và áp dụng Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Trần Ái Th phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
8. Bài học rút ra
Vụ án Trần Ái Th là một lời nhắc nhở sâu sắc về tầm quan trọng của việc tuân thủ pháp luật, đặc biệt là trong các giao dịch liên quan đến tài chính và bảo hiểm.
– Tính minh bạch và chính xác trong hồ sơ: Mọi hồ sơ, chứng từ liên quan đến chế độ bảo hiểm xã hội cần phải được lập một cách minh bạch, chính xác và trung thực. Hành vi lập khống, giả mạo thông tin, dù là nhỏ nhất, cũng có thể dẫn đến hậu quả pháp lý nghiêm trọng.
– Trách nhiệm của người quản lý: Người giữ các vị trí quan trọng như kế toán trưởng, thủ quỹ cần nhận thức rõ trách nhiệm pháp lý của mình. Lợi dụng chức vụ để trục lợi cá nhân không chỉ gây thiệt hại cho tổ chức, cơ quan nhà nước mà còn hủy hoại sự nghiệp và uy tín của chính bản thân.
– Kiểm soát nội bộ chặt chẽ: Các doanh nghiệp, tổ chức cần xây dựng và duy trì hệ thống kiểm soát nội bộ chặt chẽ, đặc biệt là trong các quy trình liên quan đến tài chính và chế độ nhân sự. Việc kiểm tra chéo, đối chiếu thông tin thường xuyên sẽ giúp phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi gian lận.
– Hiểu biết pháp luật: Mỗi cá nhân, doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu và cập nhật các quy định của pháp luật, đặc biệt là Bộ luật Hình sự, Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng dẫn liên quan. Việc không am hiểu pháp luật không phải lúc nào cũng là lý do để miễn trừ trách nhiệm.
– Tham vấn chuyên gia pháp lý: Đối với các giao dịch, hồ sơ phức tạp hoặc khi có bất kỳ nghi ngờ nào về tính hợp pháp, việc tham vấn luật sư hoặc chuyên gia pháp lý là vô cùng cần thiết. Điều này giúp đảm bảo tuân thủ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, tránh những rủi ro không đáng có.
Vụ án Trần Ái Th là một minh chứng rõ ràng rằng mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải chịu sự trừng trị. Bài học từ vụ án này không chỉ dành cho những người trong ngành bảo hiểm xã hội hay tài chính, mà còn là lời nhắc nhở cho tất cả mọi người về tầm quan trọng của sự liêm chính và tuân thủ pháp luật trong mọi hoạt động.
8. Luật Sư Tân Bình – Hỗ Trợ Pháp Lý Chuyên Nghiệp
Nếu bạn đang tìm kiếm luật sư chuyên nghiệp để hỗ trợ trong các vụ án liên quan đến Quận Tân Bình hoặc ngoài địa bàn, hãy liên hệ ngay với Luật sư Tân Bình. Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp lý, Luật sư Tân Bình sẽ giúp bạn giải quyết tranh chấp nhanh chóng và bảo vệ quyền lợi tốt nhất. Quy trình tư vấn tại Văn phòng Luật sư của chúng tôi:
1/ Tiếp nhận yêu cầu tư vấn của khách hàng:
(I) Khách hàng có thể liên hệ qua điện thoại, email hoặc đến trực tiếp văn phòng để đặt lịch hẹn tư vấn.
(II) Luật sư sẽ lắng nghe và ghi nhận thông tin ban đầu về vụ việc của khách hàng.
2/ Tư vấn điều kiện chấp nhận yêu cầu từ Tòa: Đánh giá khả năng được chấp nhập yêu cầu với mức chia tài sản cao nhất nhưng đóng án phí thấp nhất dựa trên trường hợp thực tế của khách hàng.
3/ Chuẩn bị hồ sơ đầy đủ: bào gồm đơn khởi kiện; giấy tờ chứng minh mối quan hệ với bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan (nếu có), và các tài liệu cần thiết khác.
4/ Làm việc với cơ quan tố tụng: nộp hồ sơ và theo dõi kết quá đối với một số trường hợp tài sản tranh chấp vướng pháp lý như đóng tiền sử dụng đất, tài sản tranh chấp được nhân thừa kế chưa sang tên hay nợ nghĩa vụ tài chính đối với cơ quan thuế,….
5/ Xử lý các vấn đề phát sinh: hỗ trợ khiếu nại nếu bị từ chối thụ lý hoặc gặp khó khăn trong việc xin cấp các giấy tờ làm chứng cứ khi khởi kiện tại Tòa
6/ Đại điện khách hàng: trong các giai đoạn tố tụng liên quan nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp.
Việc Văn phòng Luật sư Trần Toàn Thắng cùng khách hàng giải quyết tranh chấp chia tài thừa kế không chỉ giúp khách hàng tiết kiệm thời gián và tiền bạc mà còn giảm thiểu rủi ro pháp lý nếu có luật sư giàu kinh nghiệm đồng hành. Hãy liên hệ ngay với Văn phòng Luật sư Trần Toàn Thắng để được tư vấn miễn phí và hỗ trợ tận tình!
Chúng tôi cam kết bảo mật thông tin và quyền lợi của khách hàng.
- Vụ án Cưỡng Đoạt Tài Sản liên quan đến Công Ty Luật Pháp Việt – Hành trình phạm tội và cái kết đắng
- Luật sư thừa kế di sản quận Tân Bình
- Tranh chấp quyền sử dụng đất dẫm đến nhiều lần xô xát lẫn nhau
- Nhân thân bị can, bị cáo có ý nghĩa như thế nào trong vụ án hình sự?
- Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật