NỘI DUNG VỤ ÁN DÂN SỰ
Năm 1960, mẹ chồng cụ Nguyễn Thị Gần là cố Võ Thị Rộng cho vợ chồng cụ Gần và cụ Lê Tráng một căn nhà lợp ngói, vách đất với diện tích theo đo đạc thực tế là 526m2 (gồm 100m2 đất ở và 426m2 đất hàng năm khác) thuộc thửa số 182, tờ bản đồ số 13-A tọa lạc tại khu phố A, thị trấn B, huyện C, tỉnh Y để sinh sống. Sau khi cụ Tráng chết và do chiến tranh nhà bị sập nên cụ Gần về quê mẹ sinh sống và nhờ cụ Lê Nở (anh cụ Lê Tráng và là cha ông Lê Văn Bông) trông coi đất. Khi Nhà nước có chủ trương giao đất theo Nghị định 64/CP của Chính Phủ, cụ Gần về mượn trích lục đất đi kê khai, cụ Lê Nở trả lời đất đã được cụ Nở kê khai và mượn diện tích đất này để sản xuất; khi mãn hạn, Nhà nước giao thì cụ Nở trà lại đất. Đến năm 2015 mãn khoán, cụ Gần về lấy lại đất thì ông Lê Văn Bông không trả. Nay, Cụ khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Lê Văn Bông phải trả lại diện tích 526m2 đất.
Ông Lê Văn Bông khai rằng diện tích 526m2 đất tranh chấp nằm trong diện tích 1.057m2 đất tại thửa đất số 182, tờ bản đồ số 13-A tọa lạc khu phố A, thị trấn B, huyện C, tỉnh Y là của bà nội Ông là cố Võ Thị Rộng. Năm 1975, cổ Rộng, cha Ông là cụ Lê Nở và chủ là cụ Lê Hến đã thống nhất giao cho Ông toàn bộ diện tích đất nêu trên. Năm 1979, Ông cưới vợ và xây nhà ở từ đó cho đến nay. Thực hiện Nghị định 64/CP của Chính phủ, Ông đã đăng ký, kê khai và được Nhà nước cân đối giao 1.057m2 đất cho hộ gia đình Ông (gồm 200m2 đất ở, 200m đất quy hoạch. thổ cư và 657mỏ đất vườn) cho 07 người gồm: Ông, vợ và 05 người con. Phần đất ở giao cho cả hộ còn phần đất vườn và đất ruộng ngoài đồng giao cho 05 người, vì vợ chồng Ông buôn bán nên không giao đất ruộng. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất vườn bị thất lạc nên Ông không cung cấp được cho Tòa án. Nay cụ Gần yêu cầu Ông trả lại diện tích 526m đất, Ông không đồng ý.
Quá trình giải quyết vụ án
– Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2019/DS-ST ngày 20/11/2019, Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Y quyết định:
“Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
Công nhận diện tích 130m2 gắn với nhà dưới và công trình phục vụ sinh hoạt giếng nước, nằm trong tổng diện tích 1.057m2 thuộc thửa đất số 182(1), tô bản đồ 13-A thuộc quyền quản lý, sử dụng của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Gần, Đất có giỏi cận: Đông giáp phần đất diện tích 526m thuộc thửa đất số 182(1), tô bản đồ 13-4; Tây giáp đất nhà trên ông Lê Văn Bông thuộc thửa đất số 182(1), từ bản đồ 13-Ai Nam giáp đường đi (bê tông); Bắc giáp đất Lê Văn Trị, Lê Diệu. Tọa lạc tại khu phố A, thị trấn B, huyện C, tỉnh Y (kèm theo sơ đồ bản vẽ).
Buộc nguyên đơn bà Nguyễn Thị Gần phải thanh toán cho ông Lê Văn Bông số tiền 58.238.447 đồng về giá trị nhà dưới.
Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu công nhận diện tích 526m2 nằm trong tổng diện tích 1.057m2 thuộc thửa đất số 182(1), tờ bản đồ 13-4. Đất có giới cận: Đông giáp đường bê tông; Tây giáp đất phần đất 130m2 thuộc thửa đất số 182(1), tờ bản đồ 13-4; Nam giáp đường đi (bê tông): Bắc giáp đất Lê Văn Trị, Lê Diệu. Tọa lạc tại khu phố A, thị trấn B, huyện C, tỉnh Y (kèm theo sơ đồ bản vẽ)”
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí định giá và thông báo quyền kháng cáo của các đương sự.
– Bản án dân sự phúc thẩm số 69/2020/DS-PT ngày 24/9/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Y quyết định:
“Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 và Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Lê Văn Bông, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Gần.
Tuyên xử: Bác đơn khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Gần, đòi bị đơn ông Lê Văn Bông trả lại diện tích đất 656m2 (trong đó 100m2 đất trồng cây hàng năm khác) nằm trong tổng diện tích 1.057m2 bản đồ 13-A, tọa lạc tại khu phố A, thị trấn B, huyện C, tỉnh Y”.
Ngoài ra, Toà án phúc thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng khác.
Ngày 09/11/2020, cụ Gần đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm nói trên.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 05/2023/DS-GĐT ngày 04/01/2023 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã chấp nhận Quyết định kháng nghị của Chánh án TAND cấp các tại Đà Nẵng, hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 69/2020/DS- PT ngày 24/9/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Y; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2019/DS-ST ngày 20/11/2019, Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Y.
Những vấn đề pháp lý
Diện tích 656m3 đất do các bên đang tranh chấp nằm trong tổng diện tích 1.057mỏ đất thuộc thửa đất số 182(1), tờ bản đồ số 13-A tọa lạc tại khu phố A, thị trấn B, huyện C, tỉnh Y có nguồn gốc của vợ chồng cổ Lê Tề và cố Vô Thị Rộng.
Tại “Giấy thuận phân” do cố Võ Thị Rộng lập được Ủy ban hành chính xã E chế độ cũ xác nhận ngày 29/4/1960, có nội dung: cố Võ Thị Rộng phân chia tài sản cho 07 người con gồm các cụ Lê Thị Lãnh, Lê Thị Hoa, Lê Thị Cúc, Lê Nở, Lê Trai, Lê Hến và Lê Tráng. Trong đó phần cụ Lê Nở được chia gian nhà mái lợp ngôi vách đất, còn phần cụ Lê Tráng được chia nhà dưới, mái lợp vách đất.
Công văn số 587/UBND-TNMT ngày 28/6/2016, Ủy ban nhân dân huyện C cung cấp: “Thửa đất số 182, tờ bản đồ 13-4, tổng diện tích 1.057m, gồm 2006 đất ở đô thị + 657 m đất trồng cây hàng năm khác + 200m đất quy hoạch thổ cư. Diện tích đất hàng năm khác đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1995 cho hộ ông Lê Văn Bông tại thửa đất 644, tờ bản đồ 2, diện tích 600m (cấp diện tích chưa kiểm tra). Năm 1997, đo đạc lại bản đồ địa chính theo lưới tọa độ quốc gia và đăng ký hồ sơ địa chính tại trang 68, quyền số 5 thành thửa đất 182/1, tờ bản đồ 13-4, diện tích 657m2. Tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1995, UBND huyện không photo lưu lại giấy chứng nhận QSD đất đã cấp cho hộ ông Bông. Từ khi cấp giấy chứng nhận QSD đất hàng năm khác đến nay hộ ông Bông chưa thực hiện thủ tục cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo diện tích đo đạc lại theo hồ sơ địa chính”.
Tại Biên bản định giả ngày 11/7/2018 thể hiện: diện tích đất tranh chấp là 130m, tài sản gắn liền với đất là giếng nước và móng nhà. Theo Biên bản xác minh ngày 24/10/2018, Hợp tác xã kinh doanh dịch vụ thị trấn B cung cấp: “Theo hồ sơ lưu trữ của Hợp tác xã qua các thời kì thì thừa 182(1), tờ bản đồ 13-4 mà ông Lê Văn Bông hiện đang quản lý thì không có đưa vào hợp tác xã quản lý”.
Như vậy, có căn cứ xác định diện tích 130m2 đất, tài sản gắn liền với đất là giếng nước và móng nhà đã được cố Rộng chia cho cụ Lê Tráng chồng cụ Gần. Quá trình quản lý, sử dụng đất cụ Tráng không đưa vào Hợp tác xã quản lý. Việc ông Bông cho rằng cố Rộng, cha Ông là cụ Lê Nở và chú Ông là cụ Lê Hến đã giao diện tích đất nêu trên cho Ông quản lý, sử dụng; sau đó Ông được Nhà nước cân đối giao đất theo Nghị định 64/CP của Chính phủ về việc ban hành bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cả nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất đất nông nghiệp nhưng Ông không cung cấp được chứng cử, chứng minh. Hơn nữa, Nghị định 64/CP của Chính phủ chỉ cân đối giao đất nông nghiệp, không cân đối giao đất ở; tại thời điểm giao đất nông nghiệp, hộ ông Bông chỉ có 03 nhân khẩu. Mặt khác, Công văn số 587/UBND-TNMT ngày 28/6/2016 của Ủy ban nhân dân huyện C xác định “Diện tích đất hằng năm khác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1995 cho hộ ông Lê Kim Bông tại thia đất 644, tờ bản đồ 2, diện tích 600m2” nhưng không cung cấp được hồ sơ cấp đất năm 1995 của hộ ông Lê Văn Bông. Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận đơn khởi kiện của cụ Nguyễn Thị Gần là không có cơ sở, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cụ Gần; Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần đơn khởi kiện của cụ Gần là có căn cứ.
Luật sư Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong các vụ tranh chấp
- Tội mua bán phụ nữ, mua bán người
- Kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai tại Buôn Ma Thuột
- Người nước ngoài có đủ diều kiện để mua đất không ?
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai.
- Tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn