Linh mục khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

Linh mục khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ông Nguyễn Ngọc M được Tòa Giám mục Q giao làm Linh mục tại Giáo xứ C (Chính xứ), ngày 08/02/2018 ông nộp hồ sơ đề nghị xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) đối với thửa đất số 855, tờ bản đồ 06, diện tích 290m cho nhà thờ họ Đạo Trường Úc gửi UBND thị trấn T, đến ngày 06/3/2018 ông đến nhận kết quả nhưng UBND thị trấn không xác nhận vào hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ mà trả lời bằng Văn bản số 11/UBND đề ngày 05/3/2018 về việc chuyển trả hồ sơ đăng ký cấp GCNQSDĐ của nhà thờ họ Đạo Trường Úc. Theo ông thì UBND thị trấn T phải xác nhận vào hồ sơ xin đăng ký cấp GCNQSDĐ cho nhà thờ họ Đạo Trường Úc nhưng UBND thị trấn T không xác nhận nên ông khiếu nại đề nghị UBND thị trấn T xác nhận vào hồ sơ đăng ký cấp GCNQSDĐ. Đồng thời ông yêu cầu hộ bà Phan Thị Nguyệt K, Phan Thị Kiều T phải lấp ngõ không được đi trên phần đất nhà thờ, hộ ông Phan Vũ Ngọc L đã xây lấn đất của nhà thờ khoảng 7,5m nên phải trả lại đất lấn chiếm cho nhà thờ. Ông đề nghị cấp GCNQSDĐ với diện tích 290m theo trích lục, trong đó phía tây có giáp lối đi chung có chiều rộng 2,03m, phía bắc có chiều rộng 3,13m giáp tưởng rảo các hộ dân dẫn đến mái nhà thờ. Ông đã khiếu nại bà K và ông L đến UBND tỉnh B, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B, vì tự ý mở cổng thông sang đất nhà thờ và lấn chiếm đất nhưng chưa có kết quả; ông gửi đơn kiện đến Tòa án nhân dân huyện T thì Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện vì không thuộc thẩm quyền.

Tại đơn khởi kiện và đơn khởi kiện bổ sung, tại phiên tòa sơ thẩm ông M yêu cầu Tòa án buộc UBND thị trấn T phải xác nhận vào hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 855 tờ bản đồ 06, diện tích 290m của nhà thờ họ Đạo Trường Úc, tọa lạc thôn Phong T, thị trấn T, huyện T, tỉnh B và yêu cầu Tòa án xem xét hủy Công văn số 11/UBND ngày 05/3/2018 của UBND thị trấn T.

QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TOÀ ÁN

– Bản án HCST số 04/2021/HC-ST ngày 31/8/2021 của TAND huyện T, tỉnh B, tuyên xử:

Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Giáo xứ C, thị trấn T, huyện T, tỉnh B, do ông Nguyễn Ngọc M – Chính xứ Giáo xứ đại diện, về việc “yêu cầu Tòa án buộc UBND thị trấn 1 xác nhận vào hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ của nhà thờ họ Đạo Trường Úc và yêu cầu Tòa án xem xét hủy Công văn số 11/UBND ngày 05/3/2018 của UBND thị trấn T”.

Bản án còn tuyên về phần án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

– Kháng cáo: Ngày 04/10/2021, ông Nguyễn Ngọc M kháng cáo quá hạn, yêu cầu huỷ Bản án HCST số 04/2021/HC-ST ngày 31/8/2021 của TAND huyện T; buộc UBND thị trấn T phải xác nhận vào hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ cho nhà thờ họ Đạo Trường Úc; yêu cầu UBND thị trấn T buộc gia đình bà Phan Thị Thuỷ T lấp cổng ngõ thông qua đất của nhà thờ và buộc hộ gia đình bà Nguyễn Thanh C đập phá những công trình xây dựng lấn đất do Nhà nước và nhà thờ quản lý.

Kháng cáo quá hạn của ông Nguyễn Ngọc M được TAND tỉnh B chấp nhận tại Quyết định số 01/2021/QĐ-PT ngày 04/11/2021.

– Bản án HCPT số 04/2022/HC-PT ngày 28/4/2022 của TAND tỉnh B, xử: Huỷ Bản ăn HCST số 04/2021/HC-ST ngày 31/8/2021 của TAND huyện T, tỉnh B về khiếu kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai giữa người khởi kiện là Giáo xứ C, thị trấn T, tỉnh B; người bị kiện là UBND thị trấn T, tỉnh B; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trần Văn T, bà Phan Thị Nguyệt K, bà Phan Thị Thuỷ T, bà Phan Thị Minh N, ông Phan Vũ Ngọc L và ông Trần Văn H.

Chuyển hồ sơ vụ án cho TAND huyện T, tỉnh B xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.

– Ngày 14/6/2022, Chánh án TAND huyện T, tỉnh B có Văn bản số 70/CV- TA kiến nghị Chánh án TAND cấp cao tại Đà Nẵng xem xét lại Bản án HCPT số

04/2022/HC-PT ngày 28/4/2022 của TAND tỉnh B.

– Ngày 15/02/2023, Chánh án TAND cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 01/2023/KN-HC kháng nghị đối với Bản án HCPT số 04/2022/HC-PT ngày 28/4/2022 của TAND tỉnh B theo thủ tục giám đốc thẩm; đề nghị Uỷ ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án HCPT nêu trên, giữ nguyên Bản án HCST số 04/2021/HC-ST ngày 31/8/2021 của TAND huyện T, tỉnh B.

– Quyết định giám đốc thẩm số 01/2023/HC-GĐT ngày 07/4/2023 của UBTP TAND cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận toàn bộ Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 01/2022/KN-HC ngày 15/02/2023 của Chánh án TAND cấp cao tại Đà Nẵng. Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng nêu ra những vi phạm về tổ tụng và nội dung của vụ án để rút kinh nghiệm, cụ thể:

NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM

1. Về tố tụng: Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B xét xử sơ thẩm vụ án vào ngày 31/8/2021, ông Nguyễn Ngọc M – đại diện theo pháp luật của người khởi kiện có mặt tại phiên tòa. Đến ngày 04/10/2021, ông Nguyễn Ngọc M nộp đơn kháng cáo đề nghị hủy toàn bộ Bản án hành chính sơ thẩm nêu trên. Lý do kháng cáo quá hạn ông Nguyễn Ngọc M nêu ra là vì Tòa án cấp sơ thẩm tống đạt Bản án sơ thẩm cho ông không đúng thời hạn; ngày 25/9/2021 ông nhận được Bản án sơ thẩm nên ngày 04/10/2021 ông nộp đơn kháng cáo là phù hợp.

Xét thấy, việc Tòa án nhân dân tỉnh B chấp nhận đơn kháng cáo quá hạn của ông Nguyễn Ngọc M là trái với quy định tại khoản 1 Điều 206 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, bởi lẽ: ông Nguyễn Ngọc M có mặt tại phiên tòa sơ thẩm, nên thời hạn kháng cáo đối với Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (31/8/2021). Việc tống đạt bản án sơ thẩm không đúng thời hạn của Tòa án cấp sơ thẩm không phải là lý do bất khả kháng dẫn đến việc kháng cáo quá hạn của ông Nguyễn Ngọc M.

Khoản 1 Điều 206 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định: “Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tinh từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Đối với trường hợp đương sự đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo kể từ ngày tuyên án”

2. Về nội dung vụ án: UBND thị trấn T, huyện T, tỉnh B không xác nhận hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ của Giáo xứ C với lý do thửa đất trên đang có tranh chấp và đã ban hành Văn bản số 11/UBND ngày 05/3/2018 để chuyển trả hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ cho Giáo xứ C. Điều này thể hiện hành vi không xác nhận vào hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ của UBND thị trấn T đã chuyển hóa thành Văn bản số 11/UBND ngày 05/3/2018. Do đó, tại phiên tòa sơ thẩm, ông Nguyễn Ngọc M yêu cầu hủy Văn bản số 11/UBND ngày 05/3/2018 của UBND thị trấn T là không vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm TAND huyện T chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc Mỹ tiến hành xét xử sơ thẩm là có căn cứ, đúng pháp luật.

Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận việc ông Nguyễn Ngọc M bổ sung yêu cầu khởi kiện hủy Văn bản số 11/UBND ngày 05/3/2018 của UBND thị trấn T là đã vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu và tuyên hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm nêu trên là không đúng quy định của pháp luật; dẫn đến kéo dài quá trình giải quyết vụ án.

Hơn nữa, việc UBND thị trấn T căn cứ vào hiện trạng thửa đất số 855, tờ bản đồ 06, diện tích 290m mà Giáo xứ C nộp hồ sơ đề nghị cấp GCNQSDĐ đang có 06 hộ dân (Phan Thị Thủy T, Phan Thị Nguyệt K, Phan Vũ Ngọc L, Phan Thị Minh N, Trần Văn H, Trần Văn T) sử dụng lối đi, sử dụng chung một phần đất và đang có tranh chấp với nhà thờ họ Đạo Trường Úc; việc tranh chấp giữa các bên chưa giải quyết xong bởi các cơ quan có thẩm quyền, nên UBND thị trấn T không xác nhận hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ cho nhà thờ họ Đạo Trường Úc và ban hành Văn bản số 11/UBND ngày 05/3/2018 về việc chuyển trả hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ là đúng với các quy định tại điểm b khoản 4 Điều 102 của Luật Đất đai năm 2013 và khoản 11 Điều 7 Thông tư số 33/2017/BTNMT ngày 29/9/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Do đó, Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B tuyên xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Giáo xứ C thị trấn T, huyện T là có căn cứ, đúng pháp luật.

Từ những nhận định nêu trên, Uỷ ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 01/2023/KN-HC ngày 15/02/2023 của Chánh án TAND cấp cao tại Đà Nẵng, hủy Bản án HCPT số 04/2022/HC-PT ngày 28/4/2022 của TAND tỉnh B và giữ nguyên Bản án HCST số 04/2021/HC-ST ngày 31/8/2021 của TAND huyện T, tỉnh B.

You cannot copy content of this page