Xác định thẩm quyền giải quyết vụ án tranh chấp Hôn nhân và gia đình của Toà án là một trong những yêu cầu quan trọng khi kiểm tra điều kiện thụ lý vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình. Việc kiểm tra điều kiện thẩm quyền giải quyết vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình, Thẩm phán cần phải kiểm tra xác định rõ thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền theo cấp xét xử và thẩm quyền theo lãnh thổ, thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn. Khi kiểm tra điều kiện này, Thẩm phán cần phải căn cứ vào quy định của pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung.
Thứ nhất: Thẩm quyền theo vụ việc
Theo quy định tại Điều 27 của BLTTDS thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình của Toà án gồm:
– Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
– Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
– Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
– Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ.
– Tranh chấp về cấp dưỡng.
– Các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
Việc xác định đúng thẩm quyền theo loại việc của Toà án có ý nghĩa rất quan trọng trong suốt quá trình giải quyết vụ án tại Toà án. Thẩm quyền theo vụ việc được xác định theo ý chí của các đương sự thể hiện trong đơn khởi kiện, tính chất của quan hệ hôn nhân và các đặc điểm của từng loại yêu cầu khởi kiện. Ví dụ yêu cầu giải quyết việc ly hôn do một bên yêu cầu thì đó là vụ án dân sự và chỉ được thụ lý và xem xét khi quan hệ hôn nhân đó là hợp pháp hoặc được coi là hợp pháp trong một số trường hợp cụ thể mà pháp luật có quy định. Khi kiểm tra đơn khởi kiện để xác định thẩm quyền theo vụ việc hôn nhân và gia đình cần chú ý về hình thức đơn khởi kiện có đúng quy định tại Điều 164 BLTTDS không? Nếu đơn khởi kiện về do một bên yêu cầu ký tên ở mục người khởi kiện mà không biết đương sự phía bên kia có đồng ý hay không thì phải xác định đó là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình, còn cả 2 bên đương sự cùng ký tên người yêu cầu tòa án công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý phát sinh từ quan hệ hôn nhân thì phải xác định đó là việc dân sự về hôn nhân và gia đình được quy định tại điều 28 BLTTDS.
Như vậy, yếu tố xác định về thẩm quyền theo vụ, việc phải xem xét loại việc mà đương sự yêu cầu giải quyết có tranh chấp hay không và có thuộc loại việc tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại điều 27 BLTTDS hay không?
Thứ hai: Thẩm quyền của Toà án các cấp
Xác định thẩm quyền của tòa án nhân các cấp Thẩm phán cần căn cứ vào quy định tại các Điều 33 và 34 của BLTTDS. Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình gồm có Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Toà án nhân dân huyện, quận, thành phố, thị xã thuộc tỉnh. Theo quy định tại Điều 33 BLTTDS quy định thì các vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình được quy định tại diều 27 BLTTDS thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, những tranh chấp hôn nhân và gia đình mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện. Trường hợp này thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của tòa án nhân dân cấp tỉnh. Để xác định thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh và cấp huyện Thẩm phán cần căn cứ vào Điều 33, 34 của BLTTDS và hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP. Thẩm phán cũng cần lưu ý trường hợp mặc dù vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân cấp huyện quy định tại điều 33 BLTTDS nhưng tòa án cấp tỉnh vẫn có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm trong những trường hợp mà vụ án có tính chất phức tạp, liên quan đến nhiều người, nhiều cấp mà tòa án cấp huyện nếu xét xử sẽ không thuận lợi.
Ngoài ra khi kiểm tra về điều kiện này, Thẩm phán cần lưu ý quy định riêng biệt tại khoản 3 Điều 102 Luật Hôn nhân và gia đình về thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện đối với các tranh chấp về ly hôn, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam. Khoản 3 điều 102 Luật hôn nhân gia đình quy định: “ Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ có yếu tố nước ngoài, xem xét việc công nhận hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của nước ngoài theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam.
Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi cư trú của công dân Việt Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam”.
Việc Luật hôn nhân và gia đình quy định về thẩm quyền của tòa án theo cấp xét xử ở khu vực biên giới như vậy là đảm bảo tính đặc thù, dựa trên điều kiện về địa lý, phân bố dân cư và tập quán sinh hoạt giữa công dân Việt Nam và công dân của các nước láng giềng ở khu vực biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi tiếp cận với tòa án.
Thứ 3: Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ
Việc xác định đúng thẩm quyền giải quyết của tòa án theo lãnh thổ đối với các vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo thủ tục sơ thẩm của các tòa án cùng cấp là nhằm xác định tòa án địa phương nào có thẩm quyền giải quyết vụ án đó để đảm bảo sự hợp lý, đúng đắn và thuận lợi cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, kể cả việc thu thập chứng cứ của tòa án và sự tham gia tố tụng của các bên đương sự trong một số trường hợp vụ án có thể thuộc thẩm quyền của tòa án cùng cấp ở các địa phương khác nhau.
Để xác định thẩm quyền giải quyết của Toà án theo lãnh thổ về nguyên tắc phải căn cứ vào Điều 35, 36 của BLTTDS và hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP. Đối với các vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình nói chung thì Toà án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc. Trong trường hợp bị đơn cư trú ở một nơi nhưng làm việc ở một nơi thì phải xác định thẩm quyền giải quyết của tòa án là nơi bị đơn cư trú. Trong một số trường hợp bị đơn ở một nơi, hộ khẩu một nơi, làm việc một nơi thậm chí có trường hợp tạm trú một nơi nên việc xác định thẩm quyền của tòa án cũng gặp khó khăn. Trường hợp này chúng ta phải căn cứ vào điều 52 BLDS để xác định là nơi cư trú là nơi người đó thường xuyên sinh sống. Trong trường hợp không xác định được nơi người đó thường xuyên sinh sống thì nơi cư trú là nơi người đó đang sống để từ đó xác định thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ được chính xác.
Thứ tư: Thẩm quyền của tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn
Xác định thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn trong vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình là trường hợp mà pháp luật quy định khi điều kiện đó xảy ra thì nguyên đơn có quyền lựa chọn Tũa ỏn giải quyết. Theo quy định tại điểm a, c khoản 1 điều 36 của BLTTDS và hướng dẫn tại nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP thì trong trường hợp:
– Nếu không biết nơi cư trú, làm việc của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết.
– Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc ở Việt Nam hoặc vụ án về tranh chấp việc cấp dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết.
Như vậy, nguyên đơn có quyền lựa chọn nhiều tòa án để giải quyết vụ án thì khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện, tòa án giải thích cho đương sự biết họ chỉ có quyền lựa chọn một trong các tòa án có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật. Đồng thời tòa án yêu cầu họ cam kết trong đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu không yêu cầu tòa án khác giải quyết. Văn bản này phải được nộp cho Toà án cùng với đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ khác để làm căn cứ xác định thẩm quyền theo lãnh thổ của Toà án.
Trong một số trường hợp nguyên đơn xin ly hôn có đơn khởi kiện ở nhiều tòa án khác nhau theo sự lựa chọn của mình thì tòa án nơi nguyên đơn khởi kiện ban đầu đã thụ lý thì có thẩm quyền giải quyết. Trong trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu nộp đơn khởi kiện, nộp đơn yêu cầu tại nhiều Tòa án khác nhau được điều luật quy định, thì Tòa án đã thụ lý đầu tiên theo thời gian có thẩm quyền giải quyết. Các Tòa án khác, nếu chưa thụ lý thì căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 168 của BLTTDS trả lại đơn khởi kiện cho nguyên đơn, nếu đã thụ lý thì căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 168 và điểm i khoản 1 Điều 192 của BLTTDS ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, xóa tên vụ án đó đó trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu cùng tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự. Nếu đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí, thì Tòa án căn cứ vào khoản 3 Điều 193 của BLTTDS trả lại tiền tạm ứng án phí cho người đã nộp.
Ví dụ: Ông Nguyễn Văn A chung sống với bà Nguyễn Thị B năm 1985 ở TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh đã có 1 người con và tài sản tạo dựng được là khối bất động sản ở TP Bắc Ninh. Sau đó ông A kết hôn với bà Dương Thị C và ở tại Quận Cầu Giấy, TP Hà Nội, sinh được 2 người con và mua được căn hộ tại quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội bằng số tiền chung của ông A và bà B. Bà B biết được quan hệ này nên đã làm đơn xin ly hôn ông A, yêu cầu chia tài sản chung là bất động sản tại TP Bắc Ninh và tài sản là căn hộ tại quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội nhưng không biết ông A hiện ở đâu nên theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 36 BLTTDS thì bà B có quyền lựa chọn để khởi kiện xin ly hôn ông A tại Tòa án nhân dân nơi ông A cư trú cuối cùng là Tòa án quận Cầu giấy, TP Hà Nội hoặc tòa án nơi ông A có tài sản là bất động sản ở TP Bắc Ninh hoặc Tòa án quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội và bà B chỉ được lựa chọn khởi kiện xin ly hôn ông A tại 1 trong 3 tòa án nhân dân như trên để giải quyết. Tòa án nào đã thụ lý vụ án ly hôn nêu trên đầu tiên thì thuộc thẩm quyền giải quyết vụ án của tòa án đó.
- Cưỡng ép quan hệ tình dục, tuy nhiên bị hại rút đơn tố giác, cháu tôi có bị truy tố về tội cưỡng dâm không?
- Điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
- Tranh chấp hợp đồng tín dụng, nội dung bất lợi cho người vay
- Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế