Nội dung vụ án như sau:
Năm 1964, khi bà Tướng Thị Minh kết hôn với ông Nguyễn Tường Hưng và về ở trong căn nhà trên thửa đất của cha mẹ chồng là cụ Nguyễn Tường Trưng, cụ Nguyễn Thị Lại, cụ Lại và cụ Trưng có 09 người con, nhưng 04 người con đã chết khi còn nhỏ, còn lại 05 người con chung. Cụ Nguyễn Thị Lại chết năm 1971, cụ Nguyễn Tưởng Trung chết năm 1982. Quá trình quản lý, sử dụng đất hai cụ không tặng cho bất kỳ người nào và khi chết không để lại di chúc.
Ngày 24/02/2005, bà Tưởng Thị Minh và ông Nguyễn Tường Hưng kê khai và được Ủy ban nhân dân huyện Hoài Nhơn cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 230080, thửa số 56B, tờ bản đồ số 10 (nay là thửa số 19, tờ bản đồ số 78), diện tích 845 mỉ tại địa chỉ Khối 1, phường Bồng Sơn, thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (sau đây viết tắt là thửa đất số 56B).
Ngày 12/8/2012, bà Tướng Thị Minh và ông Nguyễn Tường Hưng chuyển nhượng một phần thửa đất cho ông Trương Văn Thành, bà Nguyễn Thị Bích Phượng. Ngày 06/9/2012, ông Trương Văn Thành, bà Nguyễn Thị Bích Phượng được Ủy ban nhân dân huyện Hoài Nhơn cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL456472, thửa đất số 56C, tờ bản đồ số 10, diện tích 206 mỉ. Đồng thời, cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 456473, thửa số 56B, tờ bản đồ số 10, diện tích 639 mỉ cho ông Nguyễn Tường Hưng và bà Tướng Thị Minh.
Trên thửa đất đang tranh chấp có căn nhà do các con của cụ Nguyễn Tưởng Trưng, cụ Nguyễn Thị Lại góp tiền xây dựng, nay là nhà Từ đường do ông Nguyễn Tưởng Công là cháu nội của cụ Nguyễn Tưởng Trưng, cụ Nguyễn Thị Lại đang ở.
Bà Tướng Thị Minh khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Tưởng Công, bà Đinh Thị Lệ Hằng phải trả lại cho Bà ngôi nhà xây dựng năm 1984 và diện tích đất 639m đã được Ủy ban nhân dân huyện Hoài nhơn cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà cho vợ chồng Bả.
Quá trình giải quyết của Tòa án
Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2020/DS-ST ngày 21/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, quyết định: “….. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Tưởng Thị Minh.
Buộc ông Nguyễn Tưởng Công, bà Đinh Thị Lệ Hằng phải trả lại toàn bộ thửa đất số 56B, tờ bản đồ số 10 (nay là thửa số 19, tờ bản đồ số 78) và tài sản trên đất, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với thửa đất số: BL 456473, số vào sổ cấp GCN: CH 01844 ngày 06/9/2012 đúng tên ông Nguyễn Tưởng Hưng và bà Tướng Thị Minh, tọa lạc tại số 95 Đào Duy Từ, phường Bồng Sơn, thị Xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định cho bà Tưởng Thị Minh, thời gian vào ngày 22/12/2020.
Bà Tưởng Thị Minh được sở hữu căn nhà xây dựng năm 2014 do bà Đinh Thị Lệ Hằng và ông Nguyễn Tường Thành xây dựng trên thửa đất số 56B, tờ bản đồ số 10 (nay là thửa số 19, tả bản đồ số 78), tọa lạc tại số 95 Đào Duy Từ, phường Bồng Sơn, thị Xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định và toàn bộ các tài sản trên đất (cổng ngã, hệ thống vệ sinh ngầm, cây cối v.v.) của bà Đinh Thị Lệ Hằng và ông Nguyễn Tường Thành, bà Tướng Thị Minh phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà Đinh Thị Lệ Hằng và ông Nguyễn Tưởng Thành 237.870.800 đồng (hai trăm ba mươi bảy triệu tầm trăm bảy mươi ngàn tám trăm đồng) giá trị các tài sản trên
Đình chỉ đối với yêu cầu phản tố yêu cầu chia thừa kế di sản của vợ chồng cụ Nguyễn Tưởng Trung và cụ Nguyễn Thị Lại của ông Nguyễn Tưởng Công 5. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Tường Công…”.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phi, chi phí tố tụng, quyền kháng cáo và thi hành án theo quy định của pháp luật.
Ngày 28/9/2020 bị đơn ông Nguyễn Tưởng Công kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm.
Ngày 05/10/2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 1705/QĐKNPT-VKS-DS, yêu cầu Tòa án xét xử phúc thẩm sửa toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại Bản án phúc thẩm số 93/2021/DS-PT ngày 08/3/2021, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, chấp nhận kháng nghị phúc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định, sửa toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2020/DS-ST ngày 21/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Về nguồn gốc đất dang tranh chấp:
Căn cứ vào tài liệu do các bên đương sự cung cấp, cũng như tại “Giấy xác nhận” của các nhân chúng là những người cao tuổi, sống lâu năm tại địa phương đều xác nhận: “…Nhà, đất tại địa chỉ 95 Đảo Duy Từ là của cụ Nguyễn Tưởng Trung và cụ Nguyễn Thị Lại đã có từ năm 1933 đến nay…
Tại Sổ mục kê ruộng đất lập năm 1982 của Hợp tác xã Nông nghiệp Bồng Sơn, tên chủ sử dụng đất ghi cụ Nguyễn Tưởng Trung sử dụng thửa đất số 155, tờ bản đồ số 2, diện tích 1.321 m, loại đất T.
Theo tờ Bản đồ số 10 lập năm 1996 và tại Sổ mục kê đất lập năm 1997, thửa đất số 56B, tờ bản đồ số 10, diện tích 845 mỉ, ghi tên chủ sử dụng đất là ông Nguyễn Tường Kiết (con thứ nhất của cụ Trưng và cụ Lại), chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 15/6/2004, ông Nguyễn Tưởng Hưng và bà Tướng Thị Minh có “Đơn xin hợp lệ về đất ở…” đối với ngôi nhà số 95 Đào Duy Từ, Tổ 7, Khối 1, thị trấn Bồng Sơn, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Phần kê khai nguồn gốc thửa đất, ông Hưng, kê khai: “…Nguồn gốc thửa đất ông cha để lại. Thời điểm bắt đầu sử dụng từ năm 1945 cho đến nay không ai tranh chấp…”. Tại Tờ khai xác định mốc thời gian sử dụng đất cùng đề ngày 15/6/2004, ông Nguyễn Tưởng Hưng, cũng khai: “…Nguồn gốc đất sử dụng ông cha để lại…”. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Tưởng Hưng được Ủy ban nhân dân thị trấn Bồng Sơn xác nhận và đã được Ủy ban nhân dân huyện Hoài Nhơn ban hành Quyết định số 2088/QĐ-UB ngày 10/12/2004 công nhận hợp thức hóa đất cho hộ ông Nguyễn Tường Hưng; ngày 24/02/2005 Ủy ban nhân dân huyện Hoài Nhơn đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Tường Hưng và bà Tướng Thị Minh, đối với thửa đất số 56B nêu trên.
Tại Văn bản số 19/UBND ngày 23/6/2020, Ủy ban nhân dân phường Bổng Sơn, xác định: “…Thời điểm cân đối giao quyền sử dụng đất theo Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993. Thủa đất 56B, tờ bản đồ số 10 không giao quyền cho tổ chức, cả nhân nào…”.
Như vậy, quyền sử dụng thửa đất số 56B, diện tích 845 m3 mà Ủy ban nhân dân huyện Hoài Nhơn đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 24/02/2005 cho ông Nguyễn Tưởng Hưng và bà Tướng Thị Minh có nguồn gốc là của cha mẹ ông Hưng (cụ Nguyễn Tưởng Trung, cụ Nguyễn Thị Lại) để lại. Quyền sử dụng thửa đất số 56B, diện tích 845 m2 vẫn là tài sản chung chưa chia của những người thừa kế của cụ Trưng, cụ Lại.
Trong thời gian ông Nguyễn Tường Hưng và bà Tưởng Thị Minh quản lý nhà đất, ngày 15/6/2004 đã tự ý kê khai đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và Ủy ban nhân dân thị trấn Bồng Sơn, xét duyệt và đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Tường Hưng và bà Tưởng Thị Minh là không phù hợp với quy định tại các Điều 253, 635, 637, 638, 639, 641, 642, 678, 679, 738, 743 của Bộ luật Dân sự năm 1995 và Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003; đồng thời, không đúng các trình tự, thủ tục theo quy định tại các Điều 119, 135, 151 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản pháp luật khác hướng dẫn thi hành Luật Đất đai thời kỳ này.
Khi xét xử vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Tưởng Thị Minh, buộc bị đơn ông Nguyễn Tường Công, bà Đinh Thị Lệ Hằng phải trả lại toàn bộ thửa đất số 56B cho bà Tướng Thị Minh là không phù hợp với thực tế khách quan của vụ việc và không đúng pháp luật.
Về tài sản gắn liền với thửa đất có tranh chấp:
Tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ và Biên bản định giá tài sản ngày 23/4/2019 của Tòa án cấp sơ thẩm, thể hiện trên thửa đất tranh chấp có 02 ngôi nhà: 01 ngôi nhà 01 tầng được xây dựng vào năm 2014 có diện tích 89 m3; 01 ngôi nhà 01 tầng được xây dựng vào năm 1984, sửa chữa lại năm 2014 (phòng thờ) có diện tích 35,4 m ; ngoài ra còn có cây cối, tưởng rào, cổng và một số công trình phụ trợ là do vợ chồng ông Hưng, bà Minh xây dựng, thuộc sở hữu của vợ chồng ông Hưng, bà Minh là không chính xác, đánh giả chúng cứ thiếu khách quan, toàn diện, không đầy đủ và không chính xác theo quy định tại các Điều 93, 94, 95, 108 và Điều 109 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Cũng theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 23/4/2019 thì ngoài 02 ngôi nhà nếu trên, trên thửa đất còn có 01 mái hiên lợp ngói (nhà để xe); 01 mái hiện lợp tôn nền gạch hoa xi măng; tưởng vào song sắt; cổng song sắt; hệ thống phần ngầm nhà vệ sinh; 01 giếng đóng và một số cây cối… Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét và tách ra sau này nếu có tranh chấp thì các đương sự có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác là không giải quyết triệt để vụ án.
Hội đồng xét xử phúc thẩm, thấy rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã thu thập đầy đủ chứng cứ nhưng việc sử dụng và đánh giá chứng cứ còn thiếu khách quan, toàn diện, không đầy đủ và không chính xác, dẫn đến việc quyết định chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Tướng Thị Minh và không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Tường Công là không đúng pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định và chấp nhận một phần kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng thời là người đại diện hợp pháp của bị đơn, sửa bản án sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Tưởng Thị Minh.