Nội dung vụ án:
Ngày 17/9/2012, Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (sau đây viết tắt là Ngân hàng) ký Hợp đồng tín dụng ngắn hạn số 01/2010/HĐ cho bà Trần Thị Tám vay 400.000.000 đồng, thời hạn vay từ ngày 17/9/2012 đến ngày 17/6/2013. Để đảm bảo khoản vay trên, bà Trần Thị Tám và chồng là ông Hồ Văn Hiếu thế chấp tài sản của mình là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BC 042540 cấp ngày 29/9/2010 do Ủy ban nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai theo Hợp đồng thế chấp bất động sản số 01/2012/HĐ ngày 14/9/2012. Hợp đồng thế chấp được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm. Quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, tính đến ngày 20/02/2013, bà Tám trả cho Ngân hàng tiền gốc là 325.000.000 đồng, tiền lãi là 22.088.889 đồng. Khi đến thời hạn trả nợ theo hợp đồng tín dụng, Ngân hàng yêu cầu bà Tám thanh toán số nợ còn thiếu, nhưng bà Tám không thực hiện. Nay, Ngân hàng yêu cầu bà Trần Thị Tám trả nợ còn lại tính đến ngày 20/10/2017 là 127.788.958 đồng; trong đó: nợ gốc là 75.000.000 đồng, nợ lãi vay trong hạn là 44.512.917 đồng và nợ lãi quá hạn là 8.276.041 đồng. Trường hợp bà Trần Thị Tám không trả được nợ thì Ngân hàng yêu cầu phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
Quá trình giải quyết vụ án: Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2017/KDTM-ST ngày 20/10/2017 của Tòa án nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai quyết định: Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Buộc bà Trần Thị Tám có trách nhiệm trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam, thông qua Chi nhánh Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai toàn bộ khoản nợ vay theo Hợp đồng tín dụng ngắn hạn số 01/2012/HĐ ngày 17/9/2012, tính đến ngày 20/10/2017 là 127.788.958 đồng. Trong đó, dư nợ gốc là 75.000.000 đồng, nợ lãi vay trong hạn là 44.512.917 đồng và nợ lãi quá hạn là 8.276.041 đồng. Ngày 16/11/2017, Viện kiểm sát nhân dân nhân dân tỉnh Gia Lai có Quyết định kháng nghị số 05/QĐKNPT-VKS-DS Bản án với nội dung: Tòa án sơ thẩm không thực niêm yết tại nhà của bị đơn bà Trần Thị Tám là không bảo đảm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 179 của BLTTDS năm 2015; Bà Trần Thị Tám là người đại diện cho Hộ kinh doanh vay vốn để thu mua nông sản, Tòa án cấp sơ thẩm không xác minh, thu thập chứng cứ để xác định tại thời điểm vay tài sản thi hộ kinh doanh bả Trần Thị Tám có những thành viên nào để có cơ sở đưa họ vào tham gia tố tụng để buộc nghĩa vụ liên đới trả nợ là không đúng quy định tại Điều 110 của BLDS, Điều 27 và Điều 37 của Luật Hôn nhân và gia đình. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm theo hướng hủy Bản án kinh doanh thương mại số 06/2017/KDTM-ST ngày 20/10/2017 của Tòa án nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai Bản án phúc thẩm hành chính số 02/2018/KDTM-PT ngày 01/03/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: Căn cứ vào Khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tổ tụng dân sự; Chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai. Hủy Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2017/KDTM-ST ngày 20/10/2017 của Tòa án nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam với bị đơn bà Trần Thị Tám. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai giải quyết lại theo thủ tục chung. Quyết định giảm đốc thẩm số 03/2021/KDTM-GĐT ngày 05/02/2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: Hủy toàn bộ Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 02/2018/KDTM-PT ngày 01/3/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2017/KDTM-ST ngày 20/10/2017 của Tòa án nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai giữa nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam với bị đơn là bà Trần Thị Tám.
Vấn đề pháp lý :
Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Tại Biên bản xác minh ngày 20/6/2017 tại UBND xã Ia Yok, huyện Ia Grai do ông Nguyễn Quốc Khương – Thôn trưởng thôn Thái Hà cung cấp: Bị đơn bà Trần Thị Tám và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Hồ Văn Hiếu có đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại thôn Thái Hà, xã Ia Yok, huyện Ia Grai, nhưng hiện nay không có mặt tại địa phương, đi đâu thì địa phương không biết vì khi đi bà Tám, ông Hiếu không thông báo cho địa phương. Nhưng Tòa án sơ thẩm không niêm yết công khai văn bản tố tụng tại nơi cư trú để bà Tám, ông Hiếu biết tham gia giải quyết vụ án là không đúng qui định tại điểm b khoản 2 Điều 179 BLTTDS 2015, ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự.
Theo Hợp đồng tín dụng số 01/2012/HĐ giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Gia Lai với Hộ kinh Doanh Trần Thị Tám thì bên vay tài sản là Hộ kinh doanh Trần Thị Tám và theo nội dung Giấy ủy quyền ngày 19/9/2012 tại phòng công chứng Xuân Thủy thì ông Hồ Văn Hiếu là chồng bà Tám đồng thời là thành viên Hộ kinh doanh Trần Thị Tám, có ủy quyền cho bà Trần Thị Tâm đại diện cho Hộ sản xuất kinh doanh Trần Thị Tám ký kết hợp đồng vay vốn với Ngân hàng; ngoài ra theo Biên bản xác minh ngày 02/01/2018 của Tòa án tỉnh Gia Lai thì gia đình hộ bà Trần Thị Tám còn có các con là chị Hồ Thị Hải, sinh năm 1989 và anh Hồ Văn Quân, sinh năm 1991 đều là thành viên hộ gia đình với bà Tám, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ để đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan để làm cơ sở xác định nghĩa vụ liên đới trả nợ cho Ngân hàng theo quy định tại Điều 103, Điều 288 BLDS năm 2015 và quy định tại Điều 27 và Điều 37 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014, mà chỉ tuyên một mình bà Tám trả nợ là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo qui định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai tuyên hủy Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2017/KDTM-ST ngày 20/10/2017 của Tòa án nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm thấy rằng:
Tòa án cấp phúc thẩm nhận định việc Tòa án cấp sơ thẩm không đưa các con là Hồ Thị Hải và Hồ Văn Quân vào tham gia tố tụng là không đúng theo quy định tại Điều 103, Điều 288 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và quy định tại Điều 27, Điều 37 Luật Hôn nhân và Gia định năm 2014, mà chỉ tuyên một mình bà Tám trả nợ là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo quy định tại Điều 70 của Bộ luật Tố tụng dân sự là chưa chính xác, bởi lẽ: Khoản 1 Điều 49 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ quy định: “Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh”. Đối chiếu với Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, hộ kinh doanh số 39F8-00210 do Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai cấp ngày 30/3/2012, thể hiện tại “Mục I. Tên hộ kinh doanh: Trần Thị Tám … 5. Họ và tên đại diện hộ kinh doanh: Trần Thị Tâm … 6. Danh sách cá nhân góp vốn thành lập hộ kinh doanh (không có ghi tên thành viên nào)” và tại Biên bản xác minh ngày 11/5/2020, Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện Ia Grai khẳng định: “Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ gia đình số 39P8-00210 do Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện la Grai, tỉnh Gia Lai cấp ngày 30/3/2012 thể hiện hộ kinh doanh Trần Thị Tâm và tại danh sách mục cá nhân góp vốn thành lập hộ kinh doanh thì không thể hiện ai. Như vậy, trong trường hợp này hộ kinh doanh Trần Thị Tâm là cá nhân bà Trần Thị Tám..”. Từ các chứng cử trên có cơ sở để xác định hộ kinh doanh Trần Thị Tám chỉ do một cá nhân là bà Trần Thị Tám làm chủ, do đó việc bên vay Hộ kinh doanh Trần Thị Tám ký kết Hợp đồng tín dụng ngày 17/9/2012 là với tư cách cá nhân bà Trần Thị Tám.
Về việc tổng đạt các quyết định tố tụng: Các tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện, Tòa án sơ thẩm đã thực hiện việc tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng cho bà Trần Thị Tám, ông Hồ Văn Hiếu nhưng không thể cấp, tổng đạt được, vì, bà Tám, ông Hiếu vắng mặt tại nơi cư trú mà không rõ thời điểm trở về, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã lập Biên bản về việc không thể thực hiện được việc cấp, tống đạt và đã tiến hành niêm yết công khai văn bản tố tụng theo đúng quy định tại Điều 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát và Bản án của Tòa án tỉnh Gia Lai nhận định Tòa án cấp sơ thẩm chưa tống đạt, niêm yết văn bản tố tụng và xác định nghĩa vụ trả nợ bao gồm cả chồng và các con bà Tám để hủy Bản án sơ thẩm là chưa xem xét, đánh giá chứng cứ thể hiện trong vụ án một cách khách quan, chưa có sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Việc kháng nghị phúc thẩm, xét xử hủy án của Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm là thiếu căn cứ làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Quyết định giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã hủy Bản án phúc thẩm nêu trên, giữ nguyên Bản án sơ thẩm là đúng quy định của pháp luật.
Luật sư Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong các vụ tranh chấp
- Phạm tội đánh bạc được hưởng án treo bị Tòa án cấp cao hủy án
- Tôi là tài xế taxi. Do mâu thuẫn từ trước nên bị đồng nghiệp đánh gây thương tích. Khi bị đánh tôi bị rơi mất điện thoại di động. Tôi đã đến công an trình báo sự việc trên. Xin hỏi luật sư tôi có quyền yêu cầu được bồi thường điện thoại không?
- Chồng tôi dùng cây chày giã tiêu đập vào đầu em gái tôi gây thương tích 3% nhưng bị khởi tố tội cố ý gây thương tích???
- Tòa không tuyên trả tiền nộp án phí.
- Chây Ì Trong Việc Trả Nhà Cho Ở Nhờ ? Cách Giải Quyết (Văn phòng Luật sư Tân Bình)