NỘI DUNG VỤ ÁN DÂN SỰ
Ngày 30/10/2011, bà Ngọc viết “Giấy vay nợ” có nội dung: Bà Ngọc vay của bà B 4.097.000.000 đồng. Bà Bông cho rằng bà Ngọc đã trả cho 597.000.000 đồng, sau khi khởi kiện thì trả thêm 24.000.000 đồng nên yêu cầu bà Ngọc trả số tiền còn lại 3.476.000.000 đồng. Tuy nhiên, bà Ngọc cho rằng Bà đã trả hết cho bà Bông thông qua tờ giấy có ghi chữ “Bông mượn Hon” với tổng số tiền 2.380.000.000 đồng và 8 cuốn sổ có ghi ngày, số tiền, chữ ký của bà Bông, bà Lộc khi nhận tiền nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Bông.
Quá trình giải quyết vụ án
– Bản án sơ thẩm số 63/2021/DS-ST ngày 05/11/2021, Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh H đã quyết định: “1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Bông yêu cầu bà Hoàng Thị Cẩm Ngọc phải trả số tiền 24.000.000 đồng 2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Phạm Thị Bông: Buộc bà Hoàng Thị Cẩm Ngọc phải trả cho bà Phạm Thị Bông số tiền 3.476.000.000 đồng (Ba tỷ, bốn trăm bảy mươi sáu triệu đồng).”. – Bản án dân sự phúc thẩm số 14/2022/DS-PT ngày 15/6/2022, của Tòa án nhân dân tỉnh H, quyết định: “Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Hoàng Thị Cẩm Ngọc; giữ nguyên bản án sơ thẩm “. Ngoài ra, Bản án còn quyết định về án phi, chi phí tố tụng khác.
Ngày 28/7/2022, bà Ngọc đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm nói trên. Ngày 22/11/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Quyết định kháng nghị giảm đốc thẩm số 75/QĐ-VKS-DS đề nghị Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm và Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho TAND huyện H xét xử lại theo thủ tục sơ thầm. Quyết định giám đốc thẩm số 10/2023/DS-GĐT ngày 10/02/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 75/QĐ-VKS-DS ngày 22/11/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
Những vấn đề pháp lý
Tại phiên hòa giải ngày 02/7/2021, bà Ngọc thừa nhận có nợ bà Bông nhưng không nhớ số tiền nợ và số tiền đã trả, sẽ kiểm tra giấy tờ và cung cấp cho Tòa án. Sau đó, bà Ngọc cho rằng số tiền 4.097.000.000 đồng là tổng tiền vay và tiền nợ hại nhưng đã trả hết cho bà Bông nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện. Bà Ngọc cung cấp tờ giấy có ghi chữ “Bông mượn Hon” (Hon là tên gọi khác của bà Ngọc) với tổng số tiền 2.380.000.000 đồng và 8 cuốn số có ghi ngày, số tiền, chữ ký của bà Bông, bà Lộc khi nhận tiền. Các đương sự thống nhất tờ giấy có ghi chữ “Bông mượn Hon” với tổng số tiền 2.380.000.000 đồng chỉ ghi ngày tháng, không ghi năm là do thói quen ghi ở chợ. Bà Ngọc cho rằng số tiền này là tiền trả nợ của “Giấy vay nợ” ngày 30/10/2011. Tại phiên tòa phúc thẩm bà Bông thừa nhận giấy này là do Bà ghi; là tiền bà Ngọc trả nợ năm 2009 nhưng không có chứng cứ chứng minh. Như vậy, đây là ý kiến của bị đơn phản đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chứ không phải yêu cầu phản tố quy định tại Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định ý kiến của bà Ngọc đối với số tiền 2.380.000.000 đồng là yêu cầu phản tố được đưa ra sau khi công khai chứng cứ và hòa giải nên không xem xét là giải quyết không triệt để vụ án. Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện ra sai lầm này để hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại cho đúng pháp luật. Tại biên bản đối chất ngày 06/10/2021, khi bà Ngọc cho rằng số tiền 1.868.200.000 đồng trong 8 cuốn sổ do bà Bông, bà Lộc ký nhận là tiền trả nợ cho bà Bông. Lúc này, bà Bông chỉ yêu cầu thời hạn 01 tuần để bà Bông, bà Ngọc, bà Lộc đối chiếu các khoản đã trả và báo kết quả với Tòa án. Điều này thể hiện, bà Bông không phản đối việc bà Ngọc xác định đã trả nợ bà Bông thông qua những lần thu tiền nói trên. Sau đó, bà Bông cho rằng số tiền Bà và chị Đoàn Thị Thanh Tuyến (con dâu bà Bông) ký nhận là tiền trả nợ và bà Ngọc còn trả thêm nhiều lần chỉ ghi vào sổ bà Bông tổng cộng 597.000.000 đồng (cuốn sổ hiện đã bị thất lạc). Bà Lộc khai có chơi hụi với bà Ngọc theo hình thức bốc hụi trước, nộp tiền sau; khi thu hụi, bà Lộc chỉ ký vào sổ của bà Ngọc nhưng không có chứng cứ chứng minh. Tại 08 cuốn sổ này có 13 lần bà Bông ký nhận tiền, 02 lần ghi chuyển khoản cho bà Phạm Thị Bông tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, còn lại bà Lộc ký nhận nhưng Tòa án chỉ dựa vào lời khai của bà Bông, bà Lộc đã xác định số tiền ký sổ của bà Lộc là tiền hụi giữa bà Lộc với bà Ngọc để không chấp nhận ý kiến của bà Ngọc là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, đánh giá chứng cứ chưa toàn diện theo Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ số tiền trong giấy vay nợ là chốt vay hay chốt tiền hụi chưa đóng đủ hay cả tiền vay và tiền hụi; khoản tiền mà và Ngọc cho rằng đã trả nợ cho bà Bông; có hay không việc bả Lộc là người thu tiền cho bà Bông để xác định số tiền trong 8 cuốn sổ là tiền gì để làm căn cứ giải quyết vụ án. Ngoài ra Tòa án không đưa chị Tuyền vào tham gia tố tụng để xác định số tiền chị Tuyền nhận là tiền hụi hay tiền bà Ngọc trả nợ cho bà Bông là chưa đảm bảo cho việc giải quyết vụ án. Như vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Bông buộc bà Hoàng Thị Cẩm Ngọc phải trả cho bà Phạm Thị Bông số tiền 3.476.000.000 đồng là chưa đủ căn cứ, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Ngọc.
Luật sư Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong các vụ tranh chấp
- Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất Và Hợp Đồng Chuyển Nhượng Nhà Ở Hàng Tỷ Đồng Tại Ninh Thuận Mới Nhất 2025
- Tranh chấp hợp đồng vay tài sản tại tỉnh Kon Tum
- Các phương thức giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính
- Sản xuất, buôn bán thực phẩm chức năng giả bị xử lý như thế nào?
- Cho nghỉ việc trái pháp luật