NỘI DUNG VỤ ÁN DÂN SỰ :
Nguyên đơn ông Phan Văn T trình bày: Năm 1993 ông Phan Văn T, bà Trần Thị Diễm Th nhận chuyển nhượng của gia đình bà Lê Thị L 700m2 đất thuộc thửa số 1, loại đất RDIII, tại phường L, quận Đ, Thành phố M với giá 23 lượng vàng 24k. Hai bên thỏa thuận thanh toán làm 3 đợt, đợt 1 đặt cọc 03 lượng vàng; đợt 2 thanh toán 15 lượng vàng và đợt 3 thanh toán nốt số vàng còn lại. Do thời gian này pháp luật quy định người có hộ khẩu tại Thành phố M mới được đứng tên đăng ký quyền sử dụng đất nhưng bà Trần Thị Diễm Th có hộ khẩu tại tỉnh ĐN, ông Phan Văn T mang quốc tịch Australia nên không đủ điều kiện đứng tên bất động sản. Vì vậy, ông Phan Văn T, bà Trần Thị Diễm Th nhờ ông Nguyễn Kh đứng tên ký hợp đồng nhận chuyển nhượng đất với bà Lê Thị L. Lúc đó ông Nguyễn Kh và ông Võ Hồng M là người tìm đất và giới thiệu để ông Phan Văn T gặp gia đình bà Lê Thị L; ông Phan Văn T trực tiếp giao dịch, đàm phán với bà Lê Thị L, hai bên thống nhất chuyển nhượng thì ông Phan Văn T nhờ ông Nguyễn Kh đứng tên ký hợp đồng. Ngày 29/10/1993, ông Nguyễn Kh ký hợp đồng nhận chuyển nhượng với bà Lê Thị L còn ông Võ Hồng M được ông Phan Văn T nhờ cầm vàng giao cho bà Lê Thị L 23 lượng, gia đình bà Lê Thị L đã bàn giao đất cho ông Phan Văn T, bà Trần Thị Diễm Th. Sau khi nhận chuyển nhượng đất, ông Nguyễn Kh và ông Võ Hồng M là người trông coi, quản lý đất và làm nhà trên đất năm 1995 nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vì thời điểm này Nhà nước chưa có chủ trương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Năm 1999, Nhà nước có chủ trương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông Nguyễn Kh đã trao đổi với ông Phan Văn T, bà Trần Thị Diễm Th việc ông Nguyễn Kh đã lớn tuổi sức khỏe giảm sút nên đề nghị chuyển cho con ông Nguyễn Kh là anh Nguyễn Tuấn A hoặc cháu của ông Phan Văn T là ông Huỳnh Ngọc V đứng tên kê khai đăng ký quyền sử dụng đất giúp ông Phan Văn T, bà Trần Thị Diễm Th. Ông Phan Văn T đã nhờ ông Huỳnh Ngọc V đứng tên kê khai (do quan hệ cậu cháu nên ông Phan Văn T không làm giấy tờ nhờ ông Huỳnh Ngọc V đứng tên). Để thực hiện việc đổi người đứng tên, năm 1999 ông Phan Văn T nhờ bà Lê Thị L ký lại giấy mua bán đất nội dung thể hiện bên bán là bà Lê Thị L, bên mua là ông Huỳnh Ngọc V ghi lại ngày bán là ngày 29/10/1993, không ghi giá mua bán mà chỉ ghi đã thanh toán tiền. Trước khi viết lại giấy mua bán, bà Lê Thị L đã yêu cầu ông Nguyễn Kh phải viết giấy cam đoan chuyển tên cho cháu là ông Huỳnh Ngọc V đứng tên, chính vì vậy mà có Tờ cam đoan do ông Nguyễn Kh viết và ký tên đề ngày 08/8/1999.
Ngày 05/10/1999, ông Huỳnh Ngọc V đứng tên kê khai giấy tờ nhà đất và được UBND phường L xác nhận ngày 12/12/1999. Thực tế, ông Huỳnh Ngọc V chỉ là người đứng tên còn ông Phan Văn T nhờ người trông coi và thưởng xuyên đi về Việt nam để quản lý đất. Năm 2006, ông Phan Văn T nhở ông Phan Thanh V đứng ra xây dựng nhà xưởng trên phần đất phía sau căn nhà xây năm 1995 và thành lập Công ty TNHH sản xuất và cung ứng điện lạnh Xuyên Việt do ông Phan Thanh V và ông Trần Công L đứng tên quản lý, điều hành, đến năm 2010 ông Phan Thanh V giao nhà xưởng và quản lý Công ty cho ông Trần Công Ch và đến năm 2014 Công ty giải thể.
Năm 2011, Nhà nước thu hồi một phần đất của thửa đất nêu trên và đền bù 823.064.320d, ông Huỳnh Ngọc V là người nhận tiền nhưng ông Huỳnh Ngọc V chỉ trả cho ông Phan Văn T 600.000.000₫ thông qua ông Trần Công Ch. Năm 2016, ông Phan Văn T đã nhờ ông Trần Công Ch thuê ông Nguyễn Tài Q xây bờ kẻ hết khoảng 600.000.000đ và nhờ bà Lê Thị L trông coi đất. Ngày 28/5/2018, UBND quận Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Huỳnh Ngọc V và vợ là bà Nguyễn Thị Mộng Ng với diện tích đất còn lại là 331m2 thuộc thửa đất số 581, nhưng ông Huỳnh Ngọc V không thông báo cho ông Phan Văn T biết. Nay ông Phan Văn T yêu cầu Tòa án công nhận diện tích đất nêu trên và tải sản trên đất là của ông Phan Văn T, bà Trần Thị Diễm Th; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Huỳnh Ngọc V, bà Nguyễn Thị Mộng Ng; ông Phan Văn T tự nguyện trả công cho ông Huỳnh Ngọc V đứng tên giảm diện tích đất nêu trên với số tiền 1.000.000.000₫.
Bị đơn là ông Huỳnh Ngọc V trình bày: Ngày 29/10/1993, ông nhận chuyển nhượng thửa đất số 118 nêu trên của bà Lê Thị L, ông Nguyễn Kh là người làm chứng, ông đã thanh toán đủ tiền và bà Lê Thị L đã giao đất theo thỏa thuận. Ngày 05/10/1999, ông thực hiện việc đăng ký đất, nguồn gốc nhận chuyển nhượng của bà Lê Thị L, trên đất có nhà xây từ ngày 20/10/1995 và UBND quận Đức xác nhận đã đăng ký nhà đất ngày 12/12/1999. Ngày 15/5/2008, UBND quận Đ ban hành Quyết định số 1559/QĐ-UB thu hồi 493,9m thuộc một phần thửa đất nêu trên, đến ngày 29/7/2011 UBND quận Đ trả tiền bồi thường, hỗ trợ đất cho hộ gia đình ông với số tiền 823.064.320d. Phần diện tích đất còn lại 331m, UBND quận Đ đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông ngày 28/5/2018. Đối với phần nhà xưởng trên đất là của Công ty Xuyên Việt do ông cho công ty thuê, hai bên có lập giấy viết tay nhưng đã bị thất lạc. Ông chỉ biết ông Phan Thanh V là Giám đốc công ty đứng ra xây dựng, lẽ ra phải trả tiền xây dựng cho Công ty Xuyên Việt nhưng Công ty Xuyên Việt đã giải thể nên ông sẽ trả tiền xây dựng cho ông Phan Thanh V theo giá Hội đồng định giá. Còn việc ông Phan Thanh V muốn giao lại số tiền này cho ai là tủy ông Phan Thanh V. Phần bờ kè thuộc đất công cộng ông không trực tiếp xây dựng, ai xây dựng ông không quan tâm vì đất này là đất công cộng không liên quan đến phần đất tranh chấp. Đối với số tiền 600.000.000₫ ông chuyển qua Ngân hàng cho ông Trần Công Ch mượn, số tiền này hai bên đã tất toán xong. Vì vậy, ông không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn T, đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn T.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:
Bà Trần Thị Diễm Th trình bày: Bà thống nhất với trình bày của ông Phan Văn T. Bà Nguyễn Thị Mộng Ng trình bày: Nhà đất tranh chấp là tài sản có trước thời kỳ hôn nhân nên là tài sản riêng của ông Huỳnh Ngọc V, bà không có ý kiến gì.
Bà Lê Thị L trình bày: Năm 1993 bà bản 700m đất, lúc đó ông Phan Văn T ông Võ Hồng M, ông Nguyễn Kh đến thương lượng nhận chuyển nhượng, hai bên đã thỏa thuận ông Phan Văn T nhận chuyển nhượng với giá 23 lượng vàng 24k. Lúc đó ông Phan Văn T nói do ông không có hộ khẩu tại Thành phố M nên ông nhờ ông Nguyễn Kh đúng tên hộ trên hợp đồng chuyển nhượng đất, còn ông Võ Hồng M được ông Phan Văn T nhờ mang vàng đến giao cho bà. Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng gia đình bả bàn giao đất, ông Nguyễn Kh là người thường xuyên đến thăm nom đất. Năm 1995, ông Nguyễn Kh dựng nhà tạm trên đất để xin cấp số nhà, đồng hồ điện, sau đó ông Phan Văn T nhờ người xây nhà xưởng. Năm 1999, Nhà nước cho đăng ký kê khai đất, ông Phan Văn T, ông Nguyễn Kh nhờ bà ký lại thủ tục chuyển nhượng đất cho ông Huỳnh Ngọc V đứng tên, do ông Nguyễn Kh già yếu muốn giao lại cho người khác cho thuận tiện đi lại và làm thủ tục giấy tờ về sau nên bà đã đồng ý ký giấy tờ với ông Huỳnh Ngọc V. Bà sợ một thửa đất bán cho nhiều người nên yêu cầu ông Nguyễn Kh phải ký Giấy tờ cam kết ngày 08/8/1999, bà là người đưa cho ông Phan Văn T giấy cam kết này. Bà khẳng định giấy mua bán đất giữa bà và ông Huỳnh Ngọc V là ký năm 1999 theo yêu cầu của ông Nguyễn Kh và ông Phan Văn T.
Sau khi nhận đất, ông Nguyễn Kh và ông Phan Văn T là người quản lý đất, ông Nguyễn Kh dựng nhà tạm, xin cấp số nhà, đồng hồ điện nước; sau đó ông Phan Văn T cho xây dựng nhà xưởng và mở công ty hoạt động kinh doanh trên đất. Đến khoảng năm 2014 thì Công ty Xuyên Việt dừng hoạt động, ông Phan Văn T có nhờ bà phụ giúp trông coi nhà xưởng và thửa đất. Bà xác định ông Phan Văn T là người nhận chuyển nhượng đất của bà và thanh toán tiền, còn ông Nguyễn Kh là người được nhờ đứng tên trên hợp đồng nhận chuyển nhượng đất.
Ông Phan Hồng M trình bày: Ông Phan Văn T định cư tại Úc, do chính sách của Nhà nước về việc thu hút Việt kiều định cư ở nước ngoài về nước đầu tư tại Việt Nam nên ông Phan Văn T mang tiền về cùng gia đình đầu tư, kinh doanh, trong đó có đầu tư kinh doanh bất động sản. Ông Phan Văn T là người lo nguồn tiền đầu tư, ông là người khảo sát đi tìm mua các lô đất có giá phù hợp, kiểm tra nguồn gốc đất sau đó cùng bàn bạc thống nhất để đầu tư mua. Khi mua đất thì ông hoặc anh em ông là người thân trong gia đình sẽ là người đứng tên ký hợp đồng chuyển nhượng, đứng tên đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đầu năm 1993, ông cùng ông Nguyễn Kh giới thiệu cho ông Phan Văn T thửa đất diện tích khoảng 700m của bà Lê Thị L giao bán, ông và ông Phan Văn T đến gặp bà Lê Thị L thương lượng, bàn bạc, hai bên thống nhất giá chuyển nhượng là 23 lượng vàng, thời điểm này ông Phan Văn T chưa lập gia đình nhưng sắp cưới bà Trần Thị Diễm Th, bà Th cũng góp tiền đầu tư. Tại thời điểm này pháp luật quy định người không có hộ khẩu tại Thành phố M thì không được nhận chuyển nhượng đất và đúng tên trên đất nông nghiệp, nên ông và bà Th cũng không đứng tên được. Vì vậy, mọi người bàn bạc thống nhất ông Nguyễn Kh đứng tên. Ngày 23/10/1993, hai bên ký hợp đồng viết tay và giao vàng. Năm 1999, khi Nhà nước cho đăng ký, kê khai đất, ông Nguyễn Kh nêu lý do tuổi đã cao nên bàn với ông, ông Phan Văn T về việc nhờ người đứng tên hộ đất giúp ông Phan Văn T. Khi đó có anh Nguyễn Tuấn A (con ông Nguyễn Kh) hoặc ông Huỳnh Ngọc V (cháu ông Phan Văn T, sau đó ông Phan Văn T quyết định nhờ ông Huỳnh Ngọc V đứng tên đất. Do đó, ông Nguyễn Kh viết Tờ cam đoan ngày 08/8/1999 để nhờ bà Lê Thị L ký giấy tờ chuyển tên đất cho ông Huỳnh Ngọc V, trong đó có Giấy mua bán đất viết tay ghi bên bán là bà Lê Thị L, bên mua là ông Huỳnh Ngọc V đề ngày 29/10/1993. Năm 2011 Nhà nước thu hồi một phần đất để giải tỏa làm đường hiện còn lại một phần cấp cho ông Huỳnh Ngọc V, bà Nguyễn Thị Mộng Ng. Ông khẳng định đất tranh chấp là của ông Phan Văn T, bà Trần Thị Diễm Th nhận chuyển nhượng của bà Lê Thị L, còn ông Huỳnh Ngọc V chỉ là người đứng tên giúp về mặt giấy tờ, ông Huỳnh Ngọc V không quản lý, không sử dụng đất. Năm 2006, ông Phan Văn T còn đầu tư vốn mở Công ty Xuyên Việt, công ty này hoạt động đến năm 2014 thì giải thể. Nay bà Trần Thị Diễm Th nhập quốc tịch Việt Nam đủ điều kiện đứng tên đăng ký quyền sử dụng đất nên ông đề nghị ông Huỳnh Ngọc V, bà Nguyễn Thị Mộng Ng trả lại quyền sử dụng đất cho ông Phan Văn T, bà Trần Thị Diễm Th.
Công ty TNHH sản xuất và cung ứng điện lạnh Xuyên Việt do ông Phan Thanh V đại diện trình bày: Công ty thành lập năm 2006, có hai thành viên là ông V và ông Trần Công Ch, vốn điều lệ 2.500.000.000đ, địa chỉ tại số 2/2 Đường số 17, Khu phổ 5, phường L, quận Đ, Thành phố M. Thực chất góp vốn thì không có, công ty có bỏ vốn làm nhà xưởng, ông là người đứng ra xây còn tiền là của ông Phan Văn T, năm 2014 công ty giải thể.
Uỷ ban nhân dân thành phố Đ, Thành phố M trình bày: Uỷ ban nhân dân quận Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 28/5/2018 theo đúng quy định pháp luật, tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN:
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 220/2020/DS-ST ngày 21/2/2020, Tòa án nhân dân Thành phố M quyết định (tóm tắt):
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn T, bà Trần Thị Diễm Th về việc yêu cầu xác định Phan Văn T, bà Trần Thị Diễm Th là người nhận chuyển nhượng thửa đất số 851, tờ bản đồ số 47, diện tích 331m2 đất tại địa chỉ 2/2 Đường số 17, Khu phố 5, phường L, quận Đ, Thành phố M.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn T, về việc yêu cầu công nhận bà Trần Thị Diễm Th được quyền sử dụng đất, quyền sở hữu đối với nhà, đất tại địa chỉ 2/2 Đường số 17, Khu phố 5, phường L, quận Đ, Thành phố M.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn T về việc yêu cầu tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà số CK052844 ngày 28/5/2018 do UBND quận Đ cấp cho ông Huỳnh Ngọc V, bà Nguyễn Thị Mộng Ng
4. Buộc ông Huỳnh Ngọc V hoàn trả cho ông Phan Văn T số tiền 146.340.000₫ ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và nghĩa vụ thi hành án.
Sau khi có bản án sơ thẩm, ngày 02/03/2020 ông Phan Văn T có đơn kháng cáo. Ngày 02/03/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố M có Quyết định kháng nghị số 3313/QĐKNPT-VKS-DS, kháng nghị phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm nêu trên.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 295/2020/DS-PT ngày 12/8/2020, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố M quyết định:
Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Phan Văn T. Sửa bản án sơ thẩm
1. Công nhận diện tích 331m2 đất cùng tài sản trên đất, thuộc thừa số 581, tờ bản đồ số 17, địa chỉ 2/2 Đường số 17, Khu phố 5, phường L, quận Đ, Thành phố M là của ông Phan Văn T và bà Trần Thị Diễm Th.
2. Bà Trần Thị Diễm Th được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất đối với diện tích 331m đất tại thửa số 581, tờ bản đồ số 17, địa chỉ 2/2 Đường số 17, Khu phố 5, phường L, quận Đ, Thành phố M.
3. Ông Phan Văn T và bà Trần Thị Diễm Th có trách nhiệm trả cho ông Huỳnh Ngọc V số tiền 10.771.957.000đ.
Ngoài ra, bản án phúc thẩm còn quyết định về án phi và nghĩa vụ thi hành án.
Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 12/01/2022 bà Lê Thị O ( người đại diện theo ủy quyền của ông Phan Văn T) có đơn đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm nêu trên.
Ngày 13/7/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 07/QĐKNGĐT-VKS-DS đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 295/2020/DS-PT ngày 12/8/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố M; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, thông qua thảo luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Hội đồng xét xử giám đốc thẩm xét thấy cần phải hủy bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
Quyết định giám đốc thẩm số 39/2022/DS-GĐT ngày 26/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 295/2020/DS-PT ngày 12/8/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố M và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 220/2020/DS-ST ngày 21/2/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố M, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố M xét xử sơ thẩm, đúng quy định pháp luật. III. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM:
1. Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không đưa ông Nguyễn Kh vào tham gia tố tụng là gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của ông Nguyễn Kh vi ông Nguyễn Kh là người đã cùng ông Phan Văn T, Võ Văn M tim mua đất và đứng tên trong giấy nhận chuyển nhượng viết tay với bà Lê Thị L khi ông Phan Văn T mua đất của bà Lê Thị L, sau khi nhận chuyển nhượng năm 1993 ông Nguyễn Kh đã xây nhà tạm và có thời gian dài trông nom quản lý đất cho ông Phan Văn T nên ông Nguyễn Kh có nhiều công sức trong việc mua bán, trông nom, quản lý đối với tài sản tranh chấp.
2. Về nội dung vụ án: Ngày 29/10/1993, ông Phan Văn T nhận chuyển nhượng của gia đình bà Lê Thị L 700m2 đất tại số 2/2 Đường số 17, Khu phố 5, phường L, thành phố Đ với giá 23 lượng vàng 24k, do ông Phan Văn T là người Việt Nam định cư ở nước ngoài không đủ điều kiện đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông Phan Văn T đã nhờ ông Nguyễn Kh đứng tên ký hợp đồng nhận chuyển nhượng thửa đất nêu trên ông Phan Văn T đã giao đủ vàng cho bà Lê Thị L và nhận đất. Sau khi nhận chuyển nhượng đất, ông Phan Văn T đã nhờ ông Nguyễn Kh quản lý, trông coi đất và làm nhà trên đất vào năm 1995. Năm 1999, Nhà nước có chủ trương kê khai, đăng ký để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông Phan Văn T nhờ ông Huỳnh Ngọc V (cháu ông Phan Văn T) đứng ra làm thủ tục. Vì vậy, ông Phan Văn T đã nhờ bà Lê Thị L ký lại giấy mua bán thửa đất nêu trên với ông Huỳnh Ngọc V ngày 29/10/1993 và ông Nguyễn Kh viết Giấy cam đoan ngày 08/8/1999 với nội dung ông Nguyễn Kh đồng ý để bà Lê Thị L ghi lại giấy mua bán đất và ông Huỳnh Ngọc V là người đứng tên trong giấy mua bán đất.
Năm 2006 ông Phan Văn T nhờ ông Phan Thanh V đứng ra xây dựng nhà xưởng trên đất phía sau căn nhà xây dựng năm 1995, xưởng xây xong thì thành lập Công ty Xuyên Việt đến năm 2014 thì Công ty giải thể. Từ năm 2016 đến nay, ông Phan Văn T nhờ bà Lê Thị L trông coi đất và nhà xưởng.
Ông Huỳnh Ngọc V cho rằng diện tích đất đang tranh chấp là của ông nhận chuyển nhượng của bà Lê Thị L theo giấy mua bán đất ngày 29/10/1993, ông Nguyễn Kh là người làm chứng ông đã thanh toán đủ tiền và nhận đất.
2.1. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ Giấy mua đất ngày 29/10/1993 do ông Huỳnh Ngọc V đứng tên và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân quận Đ cấp ngày 28/5/2019 cho ông Huỳnh Ngọc V để xác định đất tranh chấp là của ông Huỳnh Ngọc V và bác yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn T là không có căn cứ, không đánh giá toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 02/3/2020 Viện kiểm sát nhân dân Thành phố M đã ban hành Quyết định kháng nghị số 3313/QĐKNPT-VKS-DS, kháng nghị đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 220/2020/DS-ST ngày 21/02/2020 của Tòa án nhân dân M.
2.2. Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn T, sửa bản án sơ thẩm công nhận 331m đất cùng tài sản trên đất cho ông Phan Văn T, bà Trần Thị Diễm Th là đúng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng Án lệ số 02/2016/AL được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố tại Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06/4/2016 để tính công sức bảo quản, gìn giữ, tôn tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất của ông Huỳnh Ngọc V và buộc ông Phan Văn T, bà Trần Thị Diễm Th trả cho ông Huỳnh Ngọc V số tiền 10.771.957.000 đồng là không đúng, vì:
Thứ nhất; các tỉnh tiết, sự kiện pháp lý hoàn toàn khác với Án lệ số 02/2016/AL. Ông Phan Văn T là người bỏ tiền ra để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bỏ tiền chi phí xây dựng nhà xưởng, xây bờ kè suối Cái, duy trì hoạt động, bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất, còn ông Huỳnh Ngọc V chỉ là người đứng tên hộ ông Phan Văn T từ năm 1999, đến ngày 28/5/2019 ông Huỳnh Ngọc V mới được Ủy ban nhân dân quận Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thực tế, ông Huỳnh Ngọc V không phải là người tìm mua đất cho ông Phan Văn T và ông Huỳnh Ngọc V cũng không phải là người bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại tính công sức cho ông Huỳnh Ngọc V được hưởng 1/2 phần giá trị chênh lệch tăng thêm là gây thiệt hại cho ông Phan Văn T.
Thứ hai; Tòa án cấp phúc thẩm xác định phần giá trị chênh lệch tăng thêm là 21.423.915.000 đồng (22.609.565.291đ – 1.185.650.000), nhưng số tiền ông Phan Văn T bỏ ra xây dựng bờ kẻ suối Cái không được Tòa án cấp phúc thẩm xem xét để trừ đi trước khi tinh phần giá trị chênh lệch tăng thêm, để ông Huỳnh Ngọc V được hưởng %, gây thiệt hại cho ông Phan Văn T là không đúng.
Thứ ba; về giá trị 331m3 đất, theo kết quả định giá là 22.609.565.291 đồng, đây là giá trị của đất thổ cư, nhưng trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân quận Đ cấp ngày 28/5/2018 cho ông Huỳnh Ngọc V đứng tên xác định ông Huỳnh Ngọc V vẫn đang nợ tiền thuế chuyển đổi mục đích sử dụng đất là 970.376.000 đồng. Kết quả xác minh của Viện kiểm sát nhân dân tối cao ngày 12/4/2022 tại Chi cục thuế thành phố Đ xác định đến nay ông Huỳnh Ngọc V vẫn nợ số tiền này. Bản án phúc thẩm tuyên công nhận cho ông Phan Văn T được quyền sử dụng đất tranh chấp nhưng lại không khấu trừ số tiền nợ thuế chuyển đổi mục đích sử dụng đất vào khoản chi phí trước khi tính phần giá trị tăng thêm mà vẫn chia đôi để ông Huỳnh Ngọc V được hưởng 1/2 là gây thiệt hại cho ông Phan Văn T.
Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều không đưa đầy đủ những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nhưng Kiểm sát viên không phát hiện.
Bản án phúc thẩm có vi phạm về tố tụng và nội dung nhưng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố M không phát hiện được, không thông báo phát hiện vi phạm Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị giám đốc thẩm theo quy định.
Trên đây là vi phạm của Tòa án nhân dân Thành phố M, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố M trong việc giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” mà Viện kiểm sát Thành phố M, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố M không phát hiện kịp thời để thực hiện quyền kháng nghị hoặc báo cáo đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát.