I. NỘI DUNG VỤ ÁN
Thửa đất số 185, tờ bản đồ 29, diện tích 627m được Uỷ ban nhân dân (UBND) huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk cấp cho hộ bà Hồ Thị Bé vào ngày 20/6/2002. Ngày 28/9/2018, hộ bà Bé đã làm đơn đề nghị tách thửa đất nêu trên thành 04 thửa gồm: thửa số 562, 563, 564, 594 tờ bản đồ số 29. Thửa đất số 562, bà Bé chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn Ngọc, ông Ngọc đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số CP 077192. Thửa đất số 563 được cấp GCNQSDĐ số CP 077195 cho hộ bà Bé. Thửa đất số 564 bà Bé tặng cho Nguyễn Thanh Phước, ông Phước được cấp GCNQSDĐ số CP 077193. Thửa đất số 594 bà Bé tặng cho Nguyễn Thanh Sơn, ông Sơn được cấp GCNQSDĐ số 077194. Sau đó, ông Sơn đã chuyển nhượng thừa đất cho ông Phạm Minh Thời và bà Lê Thị Nữ Nhi. Hiện nay, ông Thời, bà Nhi đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Kim Cảnh, bà Cảnh được cấp GCNQSDĐ số CQ 551871.
Theo lời khai nguyên đơn ông Trần Phú, bà Nguyễn Thị Bèo: Thửa đất tranh chấp số 185 tờ bản đồ số 29, ông Phú, bà Bèo nhận chuyển nhượng của bà Trần Thị Hạnh (đã chết) năm 1991, thời điểm chuyển nhượng đất chưa được cấp GCNQSDĐ, các bên lập giấy nhượng nhà viết tay, diện tích đất nhận chuyển nhượng là 418m tại tổ dân phố 8, thị trấn Phước An, huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Ông Trần Hưởng con trai bà Hạnh là người làm chứng nhưng không ký vào giấy nhượng nhà, Tài sản trên đất có 01 căn nhà tranh, vách ván ngăn thành 02 phần nhà chính và nhà phụ. Ông Phú bà Bẻo đã trả đủ tiền cho bà Hạnh, đã nhận nhà nhưng không sử dụng do ông Phú bà Bẻo vẫn còn 01 căn nhà ở cách đó khoảng hơn 0lkm. Sau đó, một thời gian thì ông Phú, bà Bèo đến dỡ phần nhà chính về làm bếp, trên đất vẫn còn phần nhả phụ. Do bận công việc nên ông Phủ, bà Béo không thường xuyên lui tới trông nom thửa đất trên. Năm 2013, ông Phú, bà Bèo biết việc bà Hồ Thị Bé là người đã nhận chuyển nhượng một phần diện tích đất của bà Hạnh trước đó đã chiếm đất của minh nên yêu cầu bà Bé trả lại đất nhưng bà Bé không trả. UBND huyện Krông Pắc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V 294856 cho bà Bé đối với thửa đất số 185, tờ bản đồ số 29, diện tích 627m, bao trùm cả phần diện tích đất của ông Phú, bà Bẻo nhận chuyển nhượng của bà Hạnh.
Ông Phủ, bà Bèo khởi kiện: Yêu cầu gia đình bà Hồ Thị Bé trả lại cho gia đình ông Phú, bà Bẻo diện tích đất 408m và hủy GCNQSDĐ số CP 077192 thừa đất số 562, tờ bản đồ số 29, diện tích 110m cấp cho ông Nguyễn Văn Ngọc; số CP 077195 thửa đất số 563, tờ bản đồ số 29, diện tích 120m cấp cho hộ bà Hồ Thị Bé; số 077193 thửa đất số 564, tờ bản đồ số 29, diện tích 151m cấp cho ông Nguyễn Thanh Phước; số CQ 551871 thửa đất số 594, tờ bản đồ số 29, diện tích 246m cấp cho bà Nguyễn Thị Kim Cảnh.
Bị đơn bà Hồ Thị Bé và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là các con của bà Bé không chấp nhận yêu cầu khởi kiện và cho rằng:
Đất tranh chấp có nguồn gốc do bà Nguyễn Thị Tuất (mẹ chồng bà Bé) nhận chuyển nhượng của bà Hạnh năm 1989. Sau đó, bà Tuất tặng cho gia đình bà Bé. Bà Tuất chỉ nhận chuyển nhượng đất chứ không mua nhà bà Hạnh. Sau khi nhận chuyển nhượng đất thì gia đình bà Bé làm nhà trên thửa đất để ở, còn cho bà Hạnh vẫn ở tạm trong nhà vách ván, mái lợp tranh, khoảng vài tháng sau bà Hạnh chuyến đi nơi khác. Sau khi được bà Tuất cho đất, gia đình đã sử dụng ổn định và thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước, không có tranh chấp với ai, đến năm 2002 bà Hồ Thị Bé kê khai và được cấp GCNQSDĐ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND huyện Krông Pắc cho rằng:
Năm 2002, UBND huyện Krông Pắc căn cứ vào Tờ trình về việc phê duyệt cấp GCNQSDĐ số 60/TT-NNĐC ngày 19/6/2002 của Phòng Nông nghiệp – Địa chỉnh huyện Krông Pắc, kèm theo danh sách cấp GCNQSDĐ, thì có 27 trường hợp đủ điều kiện. Do vậy, ngày 20/6/2002 UBND huyện Krông Pắc đã ban hành Quyết định về việc cấp GCNQSDĐ cho 27 hộ gia đình với tổng diện tích 28.335m. Trong đó, có hộ bà Bé được cấp thửa đất số 185, tờ bản đồ số 29, diện tích 627m. Việc UBND huyện Krông Pắc cấp GCNQSDĐ cho hộ bà Hồ Thị Bé là đúng quy định của pháp luật. Việc tách thửa đất số 185 thành 04 thừa đất 562, 563, 564, 594 là theo đơn yêu cầu của bà Hồ Thị Bé, sau đó bà Hồ Thị Bé đã thực hiện việc tặng cho và chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
II. QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TOÀ ÁN
Ban án sơ thẩm số 03/2022/DSST ngày 18 tháng 2 năm 2022 của TAND tỉnh Đắk Lắk đã bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phủ, bà Bẻo.
Khủng cáo: Nguyễn đơn ông Phú, bà Bẻo kháng cáo toàn bộ án sơ thẩm, yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm huỷ Bản án sơ thẩm nêu trên, giao hồ sơ về Toà án cấp sơ thẩm xét xử sơ thẩm lại theo quy định pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận quan điểm của của Viện kiểm sát, chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, huỷ bản án sơ thẩm nêu trên, giao hồ sơ về Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
III. NHỮNG VẪN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM
Vụ án dân sự có nhiều nội dung mâu thuẫn nhưng Toà án cấp sơ thẩm chưa xác minh, làm rõ, đối chất những nội dung mâu thuẫn trong vụ án, chưa thu thập tài liệu chứng cứ làm cơ sở giải quyết vụ án mà chỉ dựa vào việc bị đơn bà Bé được cấp GCNQSDĐ và nguyên đơn ông Phủ, bà Bèo không sử dụng, không đăng ký kẽ khai đối với diện tích đất tranh chấp để quyết định không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phú bả Bé là chưa đủ cơ sở, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn.
Đương sự thừa nhận nguồn gốc diện tích đất tranh chấp 627m thửa đất số 185 tờ bản đồ số 29 là do hai bên nhận chuyển nhượng của bà Trần Thị Hạnh.
Nguyên đơn ông Phú bà Bèo cung cấp giấy nhượng nhà thể hiện nội dung ông Phú bà Bèo nhận chuyển nhượng nhà đất của bà Hạnh nhưng không thể hiện diện tích, tử cận thửa đất nhận chuyển nhượng. Ông Phủ, bà Bèo cho rằng bà Hạnh sang nhượng cho bà Tuất (mẹ chồng bà Bé) 200m đất, phần còn lại sang nhượng cho bà Bèo, ông Phú. Ông Trần Hưởng (con bà Hạnh) cũng xác định: Bà Hạnh trước lúc về xã Hoà Thành để đoàn tụ với gia đình có chuyển nhượng cho ông Phú bà Bẻo đất và nhà tranh vách ván. Bà Hạnh lúc còn sống cũng khai rằng: Năm 1988 bà có sang nhượng lại một phần diện tích đất cho bả Nguyễn Thị Tuất (mẹ chồng bà Bé), năm 1991 do con cái đều ở xã Hoà Thành huyện Krông Bông nên bà sang nhượng hai phần đất còn lại cho bà Nguyễn Thị Bèo, ông Trần Phú.
Bị đơn bà Bẻ cho rằng đã nhận chuyển nhượng toàn bộ thửa đất của bà Hạnh nhưng tại lời khai ngày 09/10/2020 bà Bé khai bà Tuất mẹ chồng bà nhận chuyển nhượng đất của bà Hạnh năm 1985, bà không biết có làm giấy tờ chuyển nhượng hay không, như vậy bà Bé cũng không xác định được diện tích đất bà Tuất nhận chuyển nhượng của bà Hạnh.
Nguyên đơn cung cấp bản phô tô “Đơn xin cấp sổ đỏ” đề ngày 09/01/2002 của bà Hồ Thị Bé gửi Phong Địa chính huyện Krông Pắc và Ban Địa chính thị trấn Phước An, nội dung: Thời điểm năm 1989 bà Trần Thị Hạnh có sang nhượng cho mẹ bà Nguyễn Thị Tuất với diện tích đất khoảng 200m để di về Hoà Thành huyện Krông Bông cộng thêm một diện tích đất liền kể là một vườn cỏ tranh chưa đo đạc, sau đó mẹ bà xin UBND xã Hoà An cấp cho để ở làm ăn vào năm 1990, có quy cách dài 25m, rộng 25m bằng 625m. Nguyên đơn xác định “Đơn xin cấp sổ đỏ” nảy có trong hồ sơ hoà giải của UBND thị trấn Phước An năm 2013. Đây là bản phố tổ chưa được chứng thực nhưng Toà án cấp sơ thẩm chưa làm rõ hiện ai đang quản lý tài liệu gốc để làm cơ sở giải quyết vụ án. Đồng thời, trong đơn thể hiện nhân chứng gồm có ông Trần Văn Sự, ông Đinh Văn Hoàn, bà Lê Thị Tam nhưng Toà án cấp sơ thẩm cũng chưa lấy lời khai của các nhân chứng này để làm rõ việc chuyển nhượng.
Văn phòng đăng ký đất đai huyện Krông Pắc xác định hiện hồ sơ cấp GCNQSDĐ lần đầu cho bà Bé đối với thửa đất 185 không còn lưu trữ tại kho lưu trữ UBND huyện Krông Pắc, chỉ có tờ trình, quyết định cấp GCNQSDĐ và danh sách kèm theo. Do đó, chưa đủ sơ sở xác định việc cấp GCNQSDĐ cho bà Bé năm 2002 có đúng quy định pháp luật hay không để xác định việc bà Hạnh chuyển nhượng cho bà Tuất là một phần hay toàn bộ thửa đất.
Với những mâu thuẫn chưa được làm rõ nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm TANDCC tại Đà Nẵng đã chấp nhận quan điểm của của Viện kiểm sát, chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, huỷ bản án sơ thẩm nêu trên, giao hồ sơ về Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.