Tranh chấp tài sản chung khi ly hôn

Tranh chấp tài sản chung khi ly hôn

Tóm tắt nội dung vụ án:

– Nguyên đơn Lê Thị Kiều Thu trình bày: Bà và ông Ngô Văn Quý do mai mối đã đi đến hôn nhân từ năm 1975, không có đăng ký kết hôn. Vợ chồng sống hạnh phúc có 03 con chung là: Ngô Thị Thúy Phượng, (SN 1976); Ngô Thị Kim Hoàng, (SN 1978); Ngô Thị Mỹ Hiếu,(SN 1980) hiện nay đã trưởng thành. Năm 1980, ông Quý đi theo người đàn bà khác sống cho đến nay; năm 2012 ông Quý về gây sự, đánh đập đuổi bà ra khỏi nhà. Bà xét thấy mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn được, xin được ly hôn ông Quý.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung, hiện nay đã trưởng thành và có gia đình riêng, nên không có yêu cầu gì.

Về tài sản chung: Trước đây cha mẹ chồng bà là ông Ngô Thử và Nguyễn Thị Can trước khi chết có để lại cho vợ chồng bà nhà và đất diện tích 1.124m2, thuộc thửa đất số 641, tờ bản đồ số 7 tọa lạc tại xã P,  huyện T. Năm 1980, ông Quý đã bỏ mẹ con bà theo vợ nhỏ sống ở cùng thôn, bà vẫn sống cùng với cha, mẹ chồng. Năm 1993, bà kê khai và đã được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà với diện tích 1.018m2 (nay thuộc thửa 24, tờ bản đồ số 25). Năm 2002, vợ chồng bà đồng ý cho vợ chồng con gái là Ngô Thị Thúy Phượng, Hồ Văn Cầm 05m chiều ngang giáp đường bê tông đã xây nhà ở. Nếu ly hôn bà yêu cầu chia ½ diện tích đất (trừ phần diện tích đã cho con gái); về phần nhà đã cũ nát, nên bà không tranh chấp. Ngoài ra, tài sản chung còn có 01 bộ bàn ghế gỗ Hương, 01 chiếc xe cup 81, 01 bàn inox, bà xin được nhận và thối tiền cho ông Quý.

– Bị đơn ông Ngô Văn Quý trình bày: Giữa ông và bà Lê Thị Kiều Thu do mai mối đã đi đến hôn nhân từ năm 1976, vợ chồng sống từ đó đến nay, không có đăng ký kết hôn. Vợ chồng sống hạnh phúc có 03 con chung là: Ngô Thị Thúy Phượng, Sn 1976; Ngô Thị Kim Hoàng, Sn 1978; Ngô Thị Mỹ Hiếu, Sn 1980 hiện nay đã trưởng thành. Quá trình chung sống hạnh phúc đến năm 2012 phát sinh mâu thuẫn, từ việc vợ ông tự ý lấy đất cho con gái và con rễ; vợ chồng cãi nhau nên vợ ông bỏ nhà đi lên nhà con gái ở Đăk Lăk sống cho đến nay và làm đơn xin ly hôn. Việc vợ ông xin ly hôn, ông đồng ý.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung, hiện nay đã trưởng thành và có gia đình riêng, nên không có yêu cầu gì.

Về tài sản: Vợ chồng có 01 bộ bàn ghế gỗ Hương, 01 xe cup 81 và 01 bàn Inox, ông yêu cầu chia đôi; về ruộng ông không tranh chấp.

Riêng căn nhà và đất bà Thu yêu cầu chia đôi, ông không đồng ý, vì nhà và đất này là của cha mẹ ông chứ không phải của vợ chồng ông. Việc bà Thu tự ý kê khai và được cấp giấy chứng nhận không được sự đồng ý của ông, nên ông yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà Thu. Trên thửa đất này có ngôi nhà do cha mẹ để lại, hiện nay đã cũ nát, không còn giá trị, ông yêu cầu để thờ cúng ông bà. Đối với diện tích đất, bà Thu tự ý cho con gái là Ngô Thị Thúy Phương và con rể Hồ Văn Cầm, ông yêu cầu con gái và con rể tháo dỡ nhà đã xây dựng, trả lại đất cho ông.

Ngoài ra, vợ chồng bà Thu, ông Quý đều thống nhất có bờ tường gạch tiếp giáp nhà của Ngô Thị Thúy Phượng và có hàng rào lưới B40 dọc theo đường bê tông phía Bắc. Ông Quý cho rằng bờ tường và rào lưới B40 do ông bỏ tiền ra xây dựng; còn bà Thu thì không thừa nhận mà cho rằng bà tự bỏ tiền ra xây dựng.

Bản án sơ thẩm số 12/2016/HNGĐ-ST ngày 25/01/2016 của TAND huyện T tuyên xử:

– Về quan hệ hôn nhân: Ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa bà Lê Thị Kiều Thu và ông Ngô Văn Quý.

– Về quan hệ tài sản chung:

+ Bác yêu cầu của ông Quý về việc yêu cầu UBND huyện T hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Lê Thị Kiều Thu và yêu cầu vợ chồng Ngô Thị Thúy Phượng, Hồ Văn Cầm tháo dỡ nhà trả lại 129,7m2 đất.

+ Tài sản chung của bà Thu và ông Quý bao gồm: Diện tích đất còn lại là 1.029m2 thuộc thửa đất số 641, tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại, xã P, huyện T và 01 bộ bàn ghế gỗ Hương, 01 xe máy cup 81, 01 bộ bàn tròn; hiện nay tất cả tài sản này do ông Ngô Văn Quý quản lý.

+ Chấp nhận yêu cầu của bà Thu về việc yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng, cụ thể như sau:

Giao cho bà Thu sở hữu 01 bộ bàn ghế gỗ hương, 01 xe máy cup 81, biển số 77FB-0254 đứng tên Lê Thị Kiều Thu, 01 bàn Inox; chia cho bà Thu được quyền sử dụng phần đất có giới cận: Đông giáp nhà đấy của chị Phượng, phía Bắc giáp đường bê tông có chiều dàn 7,79m kéo từ giáp mép đất nhà chị Phượng về phía Tây, phí Tây giáp đất của ông Quý kéo từ đường bê tông song song với cạnh nhà chị Phượng có chiều dài 12,3m, từ đó kéo đến phía Nam có chiều dài 8,72m kéo từ giáp mép phía Bắc vào Nam giáp đường đất; tổng cộng diện tích là 334m2 (có sơ đồ kèm theo), trong đó có 100m2 đất ở và 234m2 đất vườn.

Giao phần đất còn lại có giới cận có diện tích 695m2 cho ông Quý được quyền sử dụng, trong đó 100m2 đất ở và 5952 đất vườn.

So với tổng giá trị và giá trị bà Thu, ông Quý được nhận thì ông Quý phải thối lại cho bà Thu 4.565.000đ.

Ngoài ra bản án còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí, chi phí định giá và quyền kháng cáo của các bên đương sự.

 * Trong hạn luật định, ngày 27/01/2016 bị đơn Ngô Văn Quy kháng cáo không đồng ý với toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm đã tuyên, không đồng ý chia đất cho bà Thu và cho con gái; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Lê Thị Kiều Thu.

Ngày 25/4/2016 Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm phần ly hôn, hủy bản án phần chia tài sản chung. Giao hồ sơ vụ án cho cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung.

 * Những vấn đề pháp lý :

Trên diện tích đất tranh chấp có ngôi nhà có diện tích 93,8m2 và 01 chuồng heo có diện tích 4,42m2, theo biên bản định giá ngày 20/01/2015, Hội đồng định giá xác định ngôi nhà có giá trị 68.324.000đ và chuồng heo có giá trị 976.000đ, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm nhận định rằng ngôi nhà này mục nát, không còn giá trị là không đúng thực tế khách quan của vụ án và khi chia tài sản không đề cập giao nhà này cho ai được quản lý sử dụng; trong sơ đồ không thể hiện ngôi nhà này nằm trên diện tích đất của ai sau khi chia và ai là người quản lý sử dụng ngôi nhà trên là giải quyết vụ án chưa triệt để, toàn diện làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự.

Ngoài ngôi nhà, đất và một số tài sản nêu trên, vợ chồng bà Thu, ông Quý còn xây dựng tường rào và lưới B40 là tài sản chung của vợ chồng phát sinh trong thời kỳ hôn nhân. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tường rào này để xác định giá trị theo đúng quy định tại các điều 83, 85 của Bộ luật tố tụng dân sự, làm cơ sở giải quyết vụ án.

Như vậy, đối với vụ án nêu trên Tòa án cấp sơ thẩm có thiếu sót trong việc thu thập chứng cứ như: Không tiến hành xác minh làm rõ và định giá tài sản của vợ chồng phát sinh trong thời kỳ hôn nhân để làm căn cứ giải quyết chia tài sản chung; khi chia đất, trên đất có nhà nhưng không giao nhà cho ai quản lý sử dụng là thiếu sót, chưa giải quyết toàn diện, triệt để vụ án, làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.

Luật sư Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong các vụ tranh chấp

You cannot copy content of this page