Tranh chấp thừa kế tài sản và tranh chấp hợp đồng quyền sử dụng đất

Tranh chấp thừa kế tài sản và tranh chấp hợp đồng quyền sử dụng đất

NỘI DUNG VỤ ÁN.

Cha mẹ của các nguyên đơn là cụ Nguyễn Hữu H (chết ngày 24/12/2003) và cụ Lê Thị Ch (chết 23/5/2005). Cụ H và cụ Ch, có 07 người con gồm các ông, bà (Nguyễn Hữu Nh; Nguyễn Hữu Th; Nguyễn Hữu V; Nguyễn Hữu H; Nguyễn Thị Kim Th; Nguyễn Thị Bích L và Nguyễn Thị Bích S). Tài sản chung của cụ H và cụ Ch để lại là thừa đất số 348 và thửa đất số 163a, tờ bản đồ số 23, tại thôn 2, xã Hoà Phú, thành phố T, tỉnh Đ. Cụ H chết không để lại di chúc. Ngày 10/5/2005, cụ Ch lập di chúc để lại di sản cho các con, cụ thể:

– Đối với thửa đất số 348, diện tích 2.438m, có cạnh ngang 38m, phân chia cho bà Nguyễn Thị Bích L; bà Nguyễn Thị Bích S; bà Nguyễn Thị Kim Th; ông Nguyễn Hữu Th và ông Nguyễn Hữu Nh mỗi người 06m. Diện tích còn lại có chiều ngang 08m, chia cho ông Th và ông Th có nghĩa vụ lo tang lễ cho cụ Ch khi cụ Ch qua đời, thờ cúng tổ tiên và vợ chồng cụ Ch.

– Đối với thửa đất số 163a, diện tích 700m, chia cho ông Nguyễn Hữu V 04m. Diện tích đất còn lại cùng với ngôi nhà trên đất được dùng vào việc thờ cúng.

Sau khi cụ Ch chết, các đồng thừa kế không có tranh chấp về nội dung di chúc, nhưng bà Nguyễn Thị Bích S không đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 348 để làm thủ tục tách thửa theo di chúc. Vì vậy, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu: Chia di sản về quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 348 cho những người thừa kế di sản theo di chúc của bà Ch. Ông Nguyễn Hữu V từ chối nhận di sản về quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 348 và chia di sản thừa kế cho Nguyễn Hữu V đối với quyền sử dụng đất tại thửa đất số 163a, có chiều ngang thửa đất là 05m. Phần diện tích đất còn lại, có ngôi nhà trên đất để làm nơi thờ cúng. Ông Th và ông Nh từ chối nhận di sản về quyền sử dụng đất đối với thừa đất số 163a.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Bích S thừa nhận đang giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất 348 của cha mẹ và Bản di chúc do cụ Ch lập ngày 10/5/2005. Bà S sử dụng diện tích đất tại thửa đất số 348, có chiều ngang là 7,5m. Ông Nguyễn Hữu Th được thừa kế diện tích đất giống như Bà. Tuy nhiên, Bà còn đang quản lý, sử dụng 1/2 diện tích đất thừa kế phía sau thửa đất của ông Th vì ông Th đã chuyển nhượng cho Bà với giá 100.000.000 đồng vào năm 2017.

Bị đơn có phản tố, yêu cầu ông Th phải chuyển nhượng cho Bà 1/2 diện tích đất mà ông Th được nhận thừa kế. Bà từ chối nhận di sản về quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 163a.

QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN

Bản án dân sự sơ thẩm số 151/2021/DS-ST ngày 30/9/2021 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 02/2022/QĐ-SCBSBA ngày 23/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Đ quyết định:

“1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Hữu Th và ông Nguyễn Hữu Nh; chia di sản thừa kế là Quyền sử dụng đất thửa số 348, tờ bản đồ số 23 tại thôn 2, xã Hòa Phủ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U010619 do UBND huyện J (nay là thành phố T) cấp ngày 06/3/2002, cụ thể:

Chia cho ông Nguyễn Hữu Nh được quản lý, sử dụng phần quyền sử dụng đất có diện tích 756,2m (trong đó đất ở 87,5m, đất nằm trong chỉ giới quy hoạch giao thông 93,1m), thuộc một phần thửa đất số 348, tờ bản đồ số 23 tại thôn 2, xã Hòa Phú theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U 010619 cấp ngày 06/3/2002, có tứ cận…

Chia cho ông Nguyễn Hữu Th được quản lý, sử dụng phần quyền sử dụng đất có diện tích 630,0m (trong đó đất ở 87,5m, đất nằm ngoài chỉ giới quy hoạch giao thông 81,3m), thuộc một phần thửa đất số 348, tờ bản đồ số 23 tại thôn 2, xã Hòa Phủ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U 010619 cấp ngày 06/3/2002, có tứ cận….

– Chia cho bà Nguyễn Thị Kim Th được quản lý, sử dụng phần quyền sử dụng đất có diện tích 627,6m (trong đó đất ở 87,5m, đất nằm trong chỉ giới quy hoạch giao thông 79m), thuộc một phần thửa đất số 348, tờ bản đồ số 23 tại thôn 2, xã Hòa Phú theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U 010619 cấp ngày 06/3/2002, có từ cận…

Chia cho bà Nguyễn Thị Bích S được quản lý, sử dụng phần quyền sử dụng đất có diện tích 625,4m (trong đó đất ở 87,5m, đất nằm trong chỉ giới quy hoạch giao thông 76,8m), thuộc một phần thửa đất số 348, tờ bản đồ số 23 tại thôn 2, xã Hòa Phú theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U 010619 cấp ngày 06/3/2002, có tứ cận….

(Kèm theo kết quả trích đo địa chính thửa đất ngày 17/9/2019 của Công ty TNHH đo đạc – Tư vấn Nông Lâm nghiệp Đ).

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông Nguyễn Hữu V; chia di sản thừa kế là Quyền sử dụng đất thửa số 163a, tờ bản đồ số 23 tại thôn 2, xã Hòa Phú, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U 194807 do UBND huyện J (nay là thành phố T) cấp ngày 01/7/2002, cụ thể:

– Chia cho ông Nguyễn Hữu V được quản lý, sử dụng phần quyền sử dụng đất có diện tích 354,2m (trong đó đất ở 100m, đất nằm trong chỉ giới quy hoạch giao thông 1,9m), thuộc một phần thửa đất số 163a, tờ bản đồ số 23 tại thôn 2, xã Hòa Phú, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U 194807 cấp ngày

01/7/2002, có tứ cận…

– Giao cho ông Nguyễn Hữu Th, ông Nguyễn Hữu V, bà Nguyễn Thị Kim Th quản lý chung (nhà từ đường, không được chuyển nhượng, thế chấp…) đối với quyền sử dụng đất có diện tích 354,6m2 (trong đó, có 100m đất ở, đất nằm trong chỉ giới quy hoạch giao thông 4,7m) thuộc một phần thửa đất số 163a; tờ bản đồ số 23 tại thôn 2, xã Hòa Phú, theo GCNQSDĐ số U 194807 cấp ngày 01/7/2022, có tứ cận…

(Kèm theo kết quả trích đo địa chính thửa đất ngày 28/8/2020 của Công ty TNHH đo đạc – Tư vấn nông Lâm nghiệp Đ).

Ông Th, ông V, ông Nh, bà Th và bà S có nghĩa vụ liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để hoàn thiện thủ tục tách thửa, cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.

3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị Bích S, về việc yêu cầu ông Nguyễn Hữu Th sau khi nhận được phần đất được chia thừa kế (có cạnh phía trước là 7,5m ngang mặt đường Quốc lộ 14, cạnh phía sau t ngang mặt đường đi Buôn T) thì giao lại cho bà S 1/2 diện tích về phía sau”.

Bản án dân sự phúc thẩm số 45/2022/DS-PT ngày 25/02/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ, quyết định:

“Căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS:

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Bích S; giữ nguyên bản án sơ thẩm”.

Ngày 15/8/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 62/QĐ-VKS-DS theo hướng hủy bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm; giao hồ sơ vụ án cho toà án cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 51/2022/DS-GĐT ngày 09/9/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 62/QĐ-VKS-DS ngày 15/8/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng; huỷ toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm; giao hồ sơ vụ án cho toà án cấp sơ thẩm để xét xử lại vụ án.

NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM

Bản di chúc do cụ Lê Thị Ch lập ngày 10/5/2005 là sau thời điểm cụ Nguyễn Hữu H (chết 24/12/2003). Cụ Ch định đoạt cả phần di sản của cụ H để lại là không đúng. Tuy nhiên tại Bản cam kết trong gia đình lập ngày 07/9/2010, các đồng thừa kế đều thống nhất về phân chia tài sản trên cơ sở Bản di chúc do cụ Ch lập ngày 10/5/2005, nên di chúc có hiệu lực pháp luật. Di sản sản của cụ H và cụ Ch được xác định là tài sản chung của các đồng thừa kế.

Quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị Kim Th yêu cầu được nhận 8m ngang thửa đất theo di chúc của cụ Ch lập ngày 10/5/2005 và Bản cam kết trong gia đình lập ngày 07/9/2010. Tuy nhiên bản án dân sự sơ thẩm và bản án phúc thẩm lại căn cứ vào Biên bản làm việc ngày 20/11/2020 đối với các đồng thừa kế tại tòa án cấp sơ thẩm, trong khi bà Th không có mặt và cũng không có văn bản đồng ý với nội dung Biên bản ngày 20/11/2020, nhưng tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm lại chia cho bà Th 7,5m ngang đất là trái với nội dung Di chúc và Bản cam kết lập ngày 07/9/2010 của các đồng thừa kế, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Th.

Quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị Bích L đồng ý nhận 1,5m ngang đất tại thửa 348 (trước khi chia thừa kế, bà L đã nhận đất làm nhà 6m ngang). Bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm khi chia thừa kế thửa đất 348, không thẩm định, đo đạc và không giao cho bà L được quyền quản lý, sử dụng đối với phần đất 1,5m ngang này, nên bà L không làm được thủ tục xin cấp GCNQSDĐ đối với phần diện tích đất 1,5m ngang (Bà L cung cấp văn bản của chính quyền địa phương trả lời không làm được GCNQSDĐ do bản án phúc thẩm không phân chia phần tài sản này cho bà L), làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà L.

Tại Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 13/4/2021 thể hiện, trên thửa đất 163a có một căn nhà từ đường, diện tích 44,7m; 01 căn nhà cấp 4, 01 quán uốn tóc do ông V xây dựng. Trên thửa đất số 348 có 01 căn nhà xưởng, 01 nhà lán tôn do bà S, bà Th đang sử dụng. Bản án sơ thẩm, phúc thẩm chỉ tuyên chia thừa kế về phần diện tích đất, nhưng không tuyên về phần tài sản trên đất, là ảnh hưởng đến quyền về tài sản trên đất của ông V, bà S và bà Th.

Đối với ngôi nhà từ đường trên diện tích đất 354,6m tại thửa 163a thuộc quyền quản lý, sử dụng chung của các đồng thừa kế, nhưng án sơ thẩm chỉ giao cho ông Th, ông V và bà Th quản lý, sử dụng chung là không đầy đủ; bản án phúc thẩm bổ sung các đồng thừa kế quản lý, sử dụng chung, nhưng không có ông Nguyễn Hữu Nh, là ảnh hưởng đến quyền lợi của ông Nh.

Đối với yêu cầu phản tố của bà S cho rằng, hiện tại Bà đang quản lý, sử dụng 1/2 diện tích đất phía sau của ông Th, vì ông Th đã chuyển nhượng cho Bà vào năm 2017, với giá 100.000.000 đồng và yêu cầu toà án giải quyết buộc ông Th phải giao cho Bà 1/2 diện tích đất mà ông Th nhận thừa kế. Tại giai đoạn giám đốc thẩm, bà S có cung cấp bản gốc Giấy sang nhượng đất do ông Th viết, thể hiện ông Th đã sang nhượng cho bà Sa 1/2 diện tích đất ông Th được thừa kế (210m2) là phù hợp với nội dung văn bản từ chối nhận một phần đất thừa kế của ông Th để lại cho bà S. Ông Th cũng trình bày là có nhận tiền của bà S và đã viết Giấy từ chối nhận thừa kế, để cho bà S nhận một phần đất Ông được thừa kế; nhưng do Ông không tham gia phiên tòa nên không có lời khai về nội dung này. Tòa án 02 cấp không xem xét yêu cầu phản tố của bà S, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bà S.

You cannot copy content of this page