NỘI DUNG VỤ ÁN.
Ngày 02/01/1989, bà Phạm Thị Khang (vợ ông Trần Đại Đồng) nhận chuyển nhượng 1.000m2 đất của ông Đinh Dếch bằng giấy viết tay, với số tiền 800.000 đồng. Do gia đình ông Dếch chưa có chỗ ở nên bà Khang cho gia đình ông Dếch ở tạm.
Năm 1997, ông Đinh Dếch lại chuyển nhượng diện tích đất nêu trên cho ông Nguyễn Văn Ngành nên bà Khang khiếu nại. Ngày 27/12/2000, UBND xã Pờ Tó giải quyết: Gia đình ông Dếch trả lại tiền cho ông Ngành 1.200.000 đồng, còn ông Ngành trả lại đất cho ông Dếch để ông Dếch giao đất cho bà Khang, nhưng ông Dếch vả ông Ngành không thực hiện giao đất cho bà Khang.
Ngày 20/5/2002, UBND huyện I ban hành Quyết định số 671/QĐ-CT về việc giải quyết tranh chấp đất đai tại xã Pờ Tó như sau: “Không công nhận việc chuyển nhượng đất giữa ông Đinh Dếch và ông Nguyễn Văn Ngành vào ngày 10/6/1997. Ông Ngành phải trả lại 1.000m2 đất cho ông Dếch, ông Dếch có trách nhiệm giao trả lại 1.200.000 đồng cho ông Ngành. Công nhận việc chuyển nhượng đất giữa ông Đinh Dếch với bà Phạm Thị Khang”.
Ngày 20/9/2002, bà Phạm Thị Khang với ông Đinh Dếch ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Hợp đồng được UBND xã Pờ Tó xác nhận. Đến ngày 07/4/2003, Phòng địa chính nhà đất huyện I đã cấp trích lục cho bà Khang đối với thửa đất số 92, tờ bản đồ số 53, diện tích 875m. Bà Khang kê khai đất và nộp lệ phí trước bạ, nhưng ngày 07/5/2003, bà Khang chết.
Sau đó, UBND huyện I, tỉnh L đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên cho ông Nguyễn Văn Công và ông Trần Đức Hiệp; gia đình ông Công và ông Hiệp đã xây dựng nhà ở. Ngày 17/10/2012, UBND huyện I ban hành Quyết định số 280/QĐ-UBND và Quyết định số 281/QĐ-UBND thu hồi 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Công và ông Hiệp.
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu:
– Buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn Công, bà Nguyễn Thị Lành trả lại 448m3 đất ở thuộc thửa đất số 92, tờ bản đồ số 53 và yêu cầu tháo dỡ toàn bộ công trình trên đất và công nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn.
– Buộc vợ chồng ông Trần Đức Hiệp, bà Nguyễn Thị Luyên trả lại 400m2 đất ở thuộc thửa đất số 92a, tờ bản đồ số 53 và yêu cầu tháo dỡ toàn bộ công trình trên đất và công nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn.
– Yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ198054 ngày 08/12/2003 do UBND huyện I cấp cho ông Nguyễn Văn Công và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK255064 ngày 12/5/2008 cấp cho ông Trần Đức Hiệp.
Bị đơn ông Nguyễn Văn Công cho rằng, trước đây ông Ngành (bố ông Công) mua 800m đất của ông Dếch. Do ông Trần Đại Đổng tranh chấp nên ngày 29/7/2003, UBND xã Pờ Tó đã giải quyết chia cho ông Ngành và ông Đồng mỗi người 1/2 diện tích đất tranh chấp. Phần đất của ông Ngành đã cho ông Công sử dụng. Năm 2003, vợ chồng ông Công, bà Lãnh đã xây nhà ở ổn định và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 400m nên vợ chồng ông Công, bà Lành không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Bị đơn ông Trần Đức Hiệp cho rằng, gia đình Ông nhận chuyển nhượng thửa đất của ông Nguyễn Viết Quyển bằng giấy viết tay ngày 07/9/2003, được UBND xã xác nhận ngày 02/4/2008 và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 12/5/2008, diện tích đất 400m. Sau đó, gia đình Ông đã xây dựng nhà để ở từ đó đến nay nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN
Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2021/DS-ST ngày 27/8/2021 của Tòa án nhân dân huyện I, tỉnh L, quyết định:
“Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Đại Đồng, chị Trần Thị Hồng Phước, anh Trần Đại Dương, chị Trần Thị Hồng Hà về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 255064 do UBND huyện I, tỉnh L cấp cho ông Trần Đức Hiệp ngày 12/5/2008 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số ĐI 98054 do UBND huyện I, tỉnh L cấp cho ông Nguyễn Văn Công ngày 08/12/2003,
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Trần Đại Đồng, chị Trần Thị Hồng Phước, anh Trần Đại Dương, chị Trần Thị Hồng Hà về việc buộc ông Nguyễn Văn Công, bà Nguyễn Thị Lành phải tháo dỡ công trình trên đất, trả lại diện tích đất 448m2 đất thuộc thửa đất số 92, tờ bản đồ số 53 tại Đội 4, xã Pờ Tó, huyện I, tỉnh L (nay là thôn 3, xã Pờ Tó, huyện I, tỉnh L) và công nhận quyền sử dụng đối với diện tích đất trên cho nguyên đơn.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Trần Đại Đồng, chị Trần Thị Hồng Phước, anh Trần Đại Dương, chị Trần Thị Hồng Hà về việc buộc ông Trần Đức Hiệp, bà Nguyễn Thị Luyên phải tháo dỡ công trình trên đất, trả lại diện tích đất 400m đất thuộc thửa đất số 92a, tờ bản đồ số 53 tại đội 4, xã Pở Tô, huyện I, tỉnh L (nay là thôn 3, xã Pờ Tổ, huyện I, tỉnh L) và công nhận quyền sử dụng đối với diện tích đất trên cho nguyên đơn”.
Ngày 08/9/2021, nguyên đơn kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm.
Bản án dân sự phúc thẩm số 10/2022/DS-PT ngày 21/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh L, quyết định:
“Chấp nhận kháng cáo của ông Trần Đại Đồng và chị Trần Thị Hồng Phước, anh Trần Đại Dương, chị Trần Thị Hồng Hà, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2021/DS-ST ngày 27/8/2021 của Tòa án nhân dân huyện I, tỉnh L, tuyên xử:
– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Đại Đồng và các anh, chị Trần Thị Hồng Phước, Trần Đại Dương, Trần Thị Hồng Hà.
– Buộc ông Nguyễn Văn Công, bà Nguyễn Thị Lành phải trả cho ông Trần Đại Đồng và các anh, chị Trần Thị Hồng Phước, Trần Đại Dương, Trần Thị Hồng Hà số tiền giá trị quyền sử dụng đất là 348.030.000 đồng.
– Buộc ông Trần Đức Hiệp, bà Nguyễn Thị Luyên phải trả cho ông Trần Đại Đồng và các anh, chị Trần Thị Hồng Phước, Trần Đại Dương, Trần Thị Hồng Hà số tiền giá trị quyền sử dụng đất là 384.800.000 đồng.”
Ngày 21/11/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 74/QĐ-VKS-DS, theo hướng hủy toàn bộ bản án phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 04/2023/DS-GĐT ngày 04/01/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 74/QĐ-VKS-DS ngày 21/11/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng; huỷ toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm và giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, có cơ sở để xác định: Thửa đất tranh chấp có nguồn gốc do bà Phạm Thị Khang (vợ ông Trần Đại Đồng) đã nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông Đinh Dếch vào ngày 02/01/1989, diện tích 1.000 mỉ tại làng Klá, xã Pờ Tó, huyện A, tỉnh L (nay là thôn 3, xã Pờ Tổ, huyện I, tỉnh L). Sau khi nhận chuyển nhượng, bà Khang cho ông Dếch ở nhờ nên bà Khang chưa quản lý, sử dụng thửa đất và cũng chưa được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đến ngày 10/6/1997, ông Đinh Dếch lại sang nhượng diện tích đất trên cho ông Nguyễn Văn Ngành. Sau đó, ông Ngành đã tặng cho con trai là ông Nguyễn Văn Công. Còn ông Trần Đức Hiệp nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Nguyễn Viết Quyền. Ông Công và ông Hiệp đã làm nhà ở và sinh sống ổn định trên các thửa đất này từ năm 2003 và được Ủy ban nhân dân huyện I, tỉnh L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Công vào ngày 08/12/2003 đối với thửa đất số 92, diện tích 448m2 đất ở và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho cho ông H ngày 12/5/2008 đối với thửa đất 92a, diện tích 400m2 đất ở. Đến năm 2018, vợ chồng ông Hiệp, bà Luyên lại sang nhượng thửa đất 92a, diện tích 400m đất ở cho ông Đặng Văn Quang và bà Trần Thị Phương.
Năm 2003, bà Phạm Thị Khang chết nên chồng và những người con của bà Khang đã khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông Công và vợ chồng ông Hiệp trả lại các thửa đất và yêu cầu hủy các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên.
Tuy nhiên, tại Biên bản giải quyết tranh chấp đất đai ngày 29/7/2003 được lập tại Ủy ban nhân dân xã Pờ Tó, do có khiếu nại của ông Trần Đại Đồng có nội dung: Ông Đồng và ông Ngành thống nhất mỗi người 1/2 thửa đất số 92, tờ bản đồ 53 (thửa đất tranh chấp), tương đương mỗi người được 11,85 mét ngang; còn ông Quyền được chia 10 mét đất theo mặt đường của thửa đất 95. Biên bản cuộc họp này có đầy đủ chữ ký của những người tham gia là ông Đồng, ông Ngành và ông Quyền và ông Dếch. Nhưng ông Đồng cho rằng, Ông không tham gia cuộc họp ngày 29/7/2003 là không có cơ sở vì những người trực tiếp giải quyết tranh chấp đất đai tại thời điểm đó gồm: Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Pờ Tó, cán bộ địa chính xã, cán bộ tư pháp xã… đều xác định ông Đồng có tham gia cuộc họp này.
Sau khi thỏa thuận phân chia đất, do ông Đồng và ông Ngành có mâu thuẫn với nhau nên ông Đồng và ông Quyển đã tự đổi đất cho nhau, tức là diện tích đất của ông Đồng được chia ở thửa đất 92 đối với diện tích đất của ông Quyền được chia ở thửa 95. Nội dung này đã được Ủy ban nhân dân xã Pờ Tó đưa vào sơ đồ vị trí lô đất tranh chấp (thửa 92), thể hiện thừa đất 92 được chia cho ông Quyền 400m và ông Ngành 474m. Do đó, có đủ cơ sở để xác định ông Quyền đã sử dụng thửa đất 92 từ năm 2003, sau đó, ông Quyền chuyển nhượng thửa đất này cho ông Hiệp, bà Luyên; còn ông Đồng sử dụng thửa đất 95 của ông Quyền.
Tòa án cấp sơ thẩm đã bác đơn khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét, đánh giá toàn diện các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, từ đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc các bị đơn phải trả lại giá trị các thửa đất cho nguyên đơn, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của các bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến thửa đất tranh chấp. Do đó, Quyết định giám đốc thẩm của Tòa án cấp cao tại Đà Nẵng đã chấp nhận quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng; hủy toàn bộ bản án phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm.