Vụ Án “Sử Dụng Con Dấu, Tài Liệu Giả”: Bài Học Pháp Lý Từ Thị Xã Phước Long

Vào ngày 24/3/2025, tại Tòa án nhân dân thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước, một phiên tòa sơ thẩm đã diễn ra công khai để xét xử vụ án hình sự liên quan đến hành vi “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Bị cáo trong vụ án là Trần Thụy Ngọc P, sinh năm 1990, trú tại khu phố A, phường P, thị xã P, tỉnh Bình Phước. Vụ án này là một minh chứng rõ ràng về những hệ lụy pháp lý khi cố tình vi phạm các quy định về quản lý hành chính và niềm tin trong giao dịch dân sự.

1. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm

Phiên tòa sơ thẩm có sự tham gia của các thành phần sau:

– Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Phúc Vinh – Kiểm sát viên.

– Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Hoàng Ngọc Bân.

– Các Hội thẩm nhân dân: Ông Mai Phước và Bà Vũ Thị Lựu.

– Thư ký phiên tòa: Bà Đặng Thị Vui – Thư ký Tòa án nhân dân thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước.

2. Tóm tắt nội dung vụ án

Vụ án bắt đầu từ ngày 26/4/2023, khi Trần Thụy Ngọc P có vay của bà Đỗ Thị P1 với tổng số tiền 200.000.000 đồng với lãi suất 2.700 đồng/01 triệu/01 ngày. Để làm tin, P đã để lại 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY340615 mang tên Trần Ngọc T (chị gái ruột của P).

Đến khoảng tháng 10/2023, chị Trần Ngọc T yêu cầu P lấy lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm thủ tục vay ngân hàng. Do không có khả năng trả nợ bà P1, P đã lên mạng tìm người làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với giá 8.000.000 đồng để đánh tráo với giấy thật đang thế chấp. Sau khi nhận giấy giả, P đã đổi giấy thật lấy giấy giả đưa cho bà P1.

Tiếp đó, vào ngày 10/02/2024, bà P1 tiếp tục cho P vay thêm 150.000.000 đồng với lãi suất 2.700 đồng/01 triệu/01 ngày. Đến ngày 24/02/2024, bà P1 phát hiện giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này là giả. Ngày 03/7/2024, bà P1 đã làm đơn trình báo sự việc đến Công an phường L, thị xã P, tỉnh Bình Phước.

3. Diễn biến và các mốc thời gian quan trọng

26/4/2023: Trần Thụy Ngọc P vay 200.000.000 đồng từ bà Đỗ Thị P1 và thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY340615 mang tên Trần Ngọc T.

Khoảng tháng 10/2023: Chị Trần Ngọc T yêu cầu P trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. P đặt làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Khoảng 01 tuần sau khi đặt làm giả: P nhận giấy giả và trả 8.000.000 đồng.

Ngày hôm sau (sau khi nhận giấy giả): P đánh tráo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thật bằng giấy giả rồi quay lại đưa giấy giả cho bà P1.

10/02/2024: Bà P1 cho P vay thêm 150.000.000 đồng. 24/02/2024: Bà P1 phát hiện giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này là giả.

Cuối tháng 02/2024: Bà P1 đã yêu cầu P viết giấy mượn tiền cho bà P1.

Khoảng tháng 3/2024: P chuyển trả 24.000.000 đồng cho bà P1 nhưng bà P1 không cho xem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả.

Khoảng tháng 4/2024: P tiếp tục chuyển trả thêm 26.000.000 đồng.

Tháng 5/2024: P chuyển trả 2.000.000 đồng nhưng P vẫn không được bà P1 cho xem giấy giả đã đưa cho bà P1.

03/7/2024: Bà P1 làm đơn trình báo sự việc đến Công an phường L, thị xã P, tỉnh Bình Phước.

04/10/2024: Tại kết luận giám định số: 858/KL-KTHS của Phòng K Công an tỉnh B kết luận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BY340615 là giả.

11/11/2024: Bị cáo P bị khởi tố bị can để điều tra.

24/01/2025: Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long đã truy tố Trần Thụy Ngọc P về “Tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức theo khoản 1 Điều 341 của Bộ luật hình sự.

21 và 24/3/2025: Tòa án nhân dân thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự.

24/3/2025: Tòa án tuyên án sơ thẩm.

4. Nhận định của Tòa án

– Hội đồng xét xử nhận định rằng hành vi của Trần Thụy Ngọc P là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự quản lý hành chính, sự hoạt động đúng đắn, bình thường và uy tín của cơ quan Nhà nước trong quản lý hành chính. Bị cáo P là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi sử dụng giấy tờ giả của cơ quan, tổ chức là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do đó, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành Tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.

– Tuy nhiên, Tòa án cũng xét thấy khi vay 200 triệu đồng của bà P1 thì bị cáo P sử dụng giấy chứng nhận thật, sau đó P mới đặt làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả để đánh đổi, mục đích của hành vi của bị cáo là để trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị T, không phải để chiếm đoạt tiền đã vay của bà P1 mà nhằm mục đích để bà P1 tiếp tục cho P gia hạn số nợ. Mặt khác, sau khoản vay 200.000.000 đồng thì bà P1 còn cho P vay thêm nhiều khoản vay khác và P vẫn trả lãi hàng tháng cho bà P1. Do đó, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không khởi tố bị cáo tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là có căn cứ.

– Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo P có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Hiện bị cáo đang nuôi hai con nhỏ, bản thân bị cáo có khả năng tự cải tạo và không thuộc những trường hợp không cho hưởng án treo theo quy định. Việc bị cáo được hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, nên không cân áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo.

5. Quyết định của Tòa án

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Thụy Ngọc P phạm “Tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; các Điều 50, Điều 65 của Bộ luật hình sự, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng Thẩm phán; Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP. Xử phạt bị cáo Trần Thụy Ngọc P 08 (tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 (mười sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 24/3/2025). Giao bị cáo P về Ủy ban nhân dân phường phước B, thị xã P, tỉnh Bình Phước quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Bài học rút ra

Vụ án này là một lời nhắc nhở về tầm quan trọng của việc tuân thủ pháp luật, đặc biệt là trong các giao dịch liên quan đến tài sản và giấy tờ pháp lý. Hành vi làm giả và sử dụng giấy tờ giả không chỉ vi phạm pháp luật mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự quản lý hành chính và niềm tin xã hội.

Đối với cá nhân, cần tìm hiểu kỹ và tuân thủ các quy định pháp luật khi thực hiện các giao dịch vay mượn hay liên quan đến tài sản. Khi gặp khó khăn về tài chính, nên tìm kiếm các giải pháp hợp pháp và minh bạch thay vì cố tình vi phạm pháp luật, điều này có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng hơn.

Vụ án cũng cho thấy sự khoan hồng của pháp luật đối với những người có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc biệt là khi hành vi phạm tội không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là hành vi vi phạm pháp luật sẽ được bỏ qua mà là một cơ hội để người phạm tội sửa chữa sai lầm và tái hòa nhập cộng đồng.

6. Luật Sư Tân Bình – Hỗ Trợ Pháp Lý Chuyên Nghiệp

Nếu bạn đang tìm kiếm luật sư chuyên nghiệp để hỗ trợ trong các vụ án liên quan đến Quận Tân Bình hoặc ngoài địa bàn, hãy liên hệ ngay với Luật sư Tân Bình. Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp lý, Luật sư Tân Bình sẽ giúp bạn giải quyết tranh chấp nhanh chóng và bảo vệ quyền lợi tốt nhất. Quy trình tư vấn tại Văn phòng Luật sư của chúng tôi:

1/ Tiếp nhận yêu cầu tư vấn của khách hàng: 

(I) Khách hàng có thể liên hệ qua điện thoại, email hoặc đến trực tiếp văn phòng để đặt lịch hẹn tư vấn. 

(II) Luật sư sẽ lắng nghe và ghi nhận thông tin ban đầu về vụ việc của khách hàng.

2/ Tư vấn điều kiện chấp nhận yêu cầu từ Tòa: Đánh giá khả năng được chấp nhập yêu cầu với mức chia tài sản cao nhất nhưng đóng án phí thấp nhất dựa trên trường hợp thực tế của khách hàng.

3/ Chuẩn bị hồ sơ đầy đủ: bào gồm đơn khởi kiện; giấy tờ chứng minh mối quan hệ với bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan (nếu có), và các tài liệu cần thiết khác.

4/ Làm việc với cơ quan tố tụng: nộp hồ sơ và theo dõi kết quá đối với một số trường hợp tài sản tranh chấp vướng pháp lý như đóng tiền sử dụng đất, tài sản tranh chấp được nhân thừa kế chưa sang tên hay nợ nghĩa vụ tài chính đối với cơ quan thuế,….

5/ Xử lý các vấn đề phát sinh: hỗ trợ khiếu nại nếu bị từ chối thụ lý hoặc gặp khó khăn trong việc xin cấp các giấy tờ làm chứng cứ khi khởi kiện tại Tòa

6/ Đại điện khách hàng: trong các giai đoạn tố tụng liên quan nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp.

Việc Văn phòng Luật sư Trần Toàn Thắng cùng khách hàng giải quyết tranh chấp chia tài thừa kế không chỉ giúp khách hàng tiết kiệm thời gián và tiền bạc mà còn giảm thiểu rủi ro pháp lý nếu có luật sư giàu kinh nghiệm đồng hành. Hãy liên hệ ngay với Văn phòng Luật sư Trần Toàn Thắng để được tư vấn miễn phí và hỗ trợ tận tình!

Chúng tôi cam kết bảo mật thông tin và quyền lợi của khách hàng.

You cannot copy content of this page