Ngày 04/12/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng, một phiên tòa sơ thẩm công khai đã diễn ra để xét xử vụ án hình sự liên quan đến hành vi “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Bị cáo trong vụ án là Nguyễn Thị H, sinh năm 1991 tại Hải Phòng, trú tại thôn K, xã T, huyện K, thành phố Hải Phòng. Vụ án này là một lời cảnh tỉnh về những rủi ro pháp lý khi cá nhân cố tình sử dụng giấy tờ giả mạo nhằm trục lợi, đặc biệt trong các chế độ phúc lợi xã hội.
1. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm
Phiên tòa sơ thẩm có sự tham gia của các thành phần sau:
– Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Quỳnh Như.
– Các Hội thẩm nhân dân: Bà Nguyễn Thị Phin và Ông Nguyễn Minh Toàn.
– Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Quang Khiêm – Thư ký Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng.
– Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng tham gia phiên tòa: Ông Tô Việt Bảo và ông Lê Trung Đ – Kiểm sát viên.
2. Tóm tắt nội dung vụ án
Nguyễn Thị H là nhân viên Công ty TNHH S tại Hải Phòng. Do bị ốm, H đã xin nghỉ làm từ ngày 17/02/2024 đến 26/02/2024 và tự điều trị tại nhà mà không đi khám bệnh viện. Ngày 19/02/2024, H liên lạc qua mạng xã hội Facebook để đặt mua một giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng bảo hiểm xã hội (BHXH) giả với giá 400.000 đồng, mục đích để được hưởng chế độ ốm đau. H đã cung cấp các thông tin cá nhân như căn cước công dân, mã số BHXH và số ngày nghỉ là 05 ngày (từ 20/02/2024 đến 24/02/2024) để làm giấy chứng nhận. Sau khi làm xong, đối tượng này đã gửi chuyển phát giấy đến địa chỉ Công ty S.
Ngày 24/02/2024, do H vẫn đang nghỉ làm, H đã nhờ đồng nghiệp là chị Đoàn Thị Mai P nhận bưu phẩm và P đã thanh toán số tiền 400.000 đồng. Bên trong bưu phẩm có 01 giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng bảo hiểm xã hội số 146804/KCB ngày 20/02/2024 do Bệnh viện Đ1 cấp, trên giấy ghi tên Nguyễn Thị H, đơn vị làm việc: Công ty S Co Ltd, số ngày nghỉ: 05 ngày (từ 20/02/2024 đến hết 24/02/2024). H tiếp tục nhờ chị P nộp giấy chứng nhận này đến người phụ trách làm bảo hiểm của Công ty S.
Ngày 04/3/2024, BHXH thành phố H nhận được hồ sơ đề nghị giải quyết hưởng chế độ ốm đau của H. Nghi ngờ giấy chứng nhận trên là giả, BHXH thành phố H đã chuyển các tài liệu liên quan tới Công an quận H để xác minh, điều tra. Kết luận giám định số 916 ngày 15/4/2024 của Phòng K Công an thành phố H xác định chữ ký mang tên Trưởng khoa kiểm tra sức khỏe Bs. Lê Thị T2 trên mẫu cần giám định không phải do cùng một người ký ra, mà được làm giả bằng phương pháp ký trực tiếp. Hình dấu tròn và hình dấu chức danh cũng không phải do cùng một con dấu đóng ra.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. H khai nếu không bị phát hiện, H sẽ được Bảo hiểm xã hội H thanh toán chế độ ốm đau số tiền là 782.400 đồng. Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị H về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.
3. Diễn biến và các mốc thời gian quan trọng
– 17/02/2024 – 26/02/2024: Nguyễn Thị H xin nghỉ làm tại công ty do bị ốm.
– 19/02/2024: H liên hệ qua Facebook để đặt mua giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH giả với giá 400.000 đồng.
– 20/02/2024: Giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH giả được Bệnh viện Đ1 cấp (ghi trên giấy).
– 24/02/2024: H nhờ đồng nghiệp nhận bưu phẩm chứa giấy chứng nhận giả và nộp cho công ty.
– 04/3/2024: BHXH thành phố H nhận được hồ sơ đề nghị giải quyết hưởng chế độ ốm đau của Nguyễn Thị H và nghi ngờ tính xác thực của giấy chứng nhận.
– 15/4/2024: Kết luận giám định số 916 của Phòng K Công an thành phố H xác nhận chữ ký và hình dấu trên giấy chứng nhận là giả.
– 20/10/2024: Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng truy tố Nguyễn Thị H về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
– 04/12/2024: Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng xét xử sơ thẩm và tuyên án.
4. Nhận định của Tòa án
Hội đồng xét xử nhận định rằng hành vi của Nguyễn Thị H là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động bình thường của các tổ chức, cơ quan nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, vật chứng thu giữ và kết luận giám định, đủ cơ sở xác định Nguyễn Thị H đã sử dụng giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng bảo hiểm xã hội giả nhằm mục đích được hưởng chế độ ốm đau. Hành vi này đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại Điều 341 Bộ luật Hình sự.
Phân tích của tòa về hành vi gian lận bảo hiểm xã hội: Tòa án nhận định rằng hành vi của Nguyễn Thị H sử dụng giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH giả nhằm chiếm đoạt tiền BHXH nhưng số tiền nhằm chiếm đoạt chưa đến 10.000.000 đồng và chưa chiếm đoạt được thì bị phát hiện. Do đó, không đủ căn cứ xử lý hình sự đối với bị cáo H về hành vi Gian lận bảo hiểm xã hội, quy định tại Điều 214 Bộ luật Hình sự. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H đã có văn bản đề nghị UBND quận H xử phạt hành chính đối với hành vi này của H theo thẩm quyền là có căn cứ.
Tòa án cũng xét thấy bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, chưa có tiền án, tiền sự. Ngoài ra, bị cáo trình bày chồng bị tai nạn lao động chưa hồi phục sức khỏe, ba con còn nhỏ đang trong độ tuổi ăn học nên cần chăm sóc. Do đó, Tòa án quyết định áp dụng Điều 36 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được cải tạo không giam giữ.
Về hình phạt bổ sung, Tòa án không áp dụng phạt tiền do bị cáo có công việc thu nhập không ổn định, không có căn cứ xác định bị cáo có tài sản riêng và hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đối với điện thoại di động mà bị cáo dùng vào mục đích phạm tội, Tòa án tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước.
5. Quyết định của Tòa án
Căn cứ khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự:
– Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
– Xử phạt: Nguyễn Thị H 15 (Mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ. Thời điểm bắt đầu chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện K nhận được Quyết định thi hành án.
– Miễn khấu trừ một phần thu nhập hàng tháng để sung vào ngân sách Nhà nước đối với bị cáo.
– Miễn phạt tiền đối với bị cáo.
– Giao bị cáo Nguyễn Thị H cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện K, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo.
– Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” đối với bị cáo.
– Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại nhãn hiệu IPHONE 11 Pro màu xanh đã qua sử dụng.
– Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
6. Bài học rút ra
Vụ án Nguyễn Thị H là một ví dụ điển hình về hậu quả pháp lý khi cá nhân cố tình làm giả và sử dụng tài liệu của cơ quan, tổ chức. Dù số tiền trục lợi không lớn và bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, hành vi này vẫn bị pháp luật nghiêm trị vì đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính và niềm tin xã hội.
Bài học rút ra là mỗi cá nhân cần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật, không vì lợi ích nhỏ mà liều lĩnh thực hiện các hành vi vi phạm. Trong trường hợp gặp khó khăn, hãy tìm đến các giải pháp hợp pháp và sự hỗ trợ từ cộng đồng thay vì sa vào con đường làm trái pháp luật. Pháp luật Việt Nam dù có sự khoan hồng đối với những người thành khẩn khai báo và có tình tiết giảm nhẹ, nhưng vẫn kiên quyết xử lý để răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.
7. Luật Sư Tân Bình – Hỗ Trợ Pháp Lý Chuyên Nghiệp
Nếu bạn đang tìm kiếm luật sư chuyên nghiệp để hỗ trợ trong các vụ án liên quan đến Quận Tân Bình hoặc ngoài địa bàn, hãy liên hệ ngay với Luật sư Tân Bình. Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp lý, Luật sư Tân Bình sẽ giúp bạn giải quyết tranh chấp nhanh chóng và bảo vệ quyền lợi tốt nhất. Quy trình tư vấn tại Văn phòng Luật sư của chúng tôi:
1/ Tiếp nhận yêu cầu tư vấn của khách hàng:
(I) Khách hàng có thể liên hệ qua điện thoại, email hoặc đến trực tiếp văn phòng để đặt lịch hẹn tư vấn.
(II) Luật sư sẽ lắng nghe và ghi nhận thông tin ban đầu về vụ việc của khách hàng.
2/ Tư vấn điều kiện chấp nhận yêu cầu từ Tòa: Đánh giá khả năng được chấp nhập yêu cầu với mức chia tài sản cao nhất nhưng đóng án phí thấp nhất dựa trên trường hợp thực tế của khách hàng.
3/ Chuẩn bị hồ sơ đầy đủ: bào gồm đơn khởi kiện; giấy tờ chứng minh mối quan hệ với bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan (nếu có), và các tài liệu cần thiết khác.
4/ Làm việc với cơ quan tố tụng: nộp hồ sơ và theo dõi kết quá đối với một số trường hợp tài sản tranh chấp vướng pháp lý như đóng tiền sử dụng đất, tài sản tranh chấp được nhân thừa kế chưa sang tên hay nợ nghĩa vụ tài chính đối với cơ quan thuế,….
5/ Xử lý các vấn đề phát sinh: hỗ trợ khiếu nại nếu bị từ chối thụ lý hoặc gặp khó khăn trong việc xin cấp các giấy tờ làm chứng cứ khi khởi kiện tại Tòa
6/ Đại điện khách hàng: trong các giai đoạn tố tụng liên quan nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp.
Việc Văn phòng Luật sư Trần Toàn Thắng cùng khách hàng giải quyết tranh chấp chia tài thừa kế không chỉ giúp khách hàng tiết kiệm thời gián và tiền bạc mà còn giảm thiểu rủi ro pháp lý nếu có luật sư giàu kinh nghiệm đồng hành. Hãy liên hệ ngay với Văn phòng Luật sư Trần Toàn Thắng để được tư vấn miễn phí và hỗ trợ tận tình!
Chúng tôi cam kết bảo mật thông tin và quyền lợi của khách hàng.
- Tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới
- Vụ Án “Sử Dụng Tài Liệu Giả”: Hậu Quả Khó Lường Từ Quận Hồng Bàng
- Yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá.
- Nhà thờ họ, từ đường bị chuyển nhượng, tặng cho, lại được Uỷ ban nhân dân cấp sổ hồng thì Tòa án giải quyết như thế nào?
- Giấy tờ đất đai qua các thời kỳ